Bản án 03/2020/HSST ngày 19/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 03/2020/HSST NGÀY 19/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, Sinh năm: 1992; Tại Thanh Hóa. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn Â, xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 9/12; Con ông Nguyễn Văn T2; và bà Nguyễn Thị T3; chưa vợ; Tiền án: không; Tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 28/7/2017 bị Công an huyện T xử phạt hành chính về hành vi “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/6/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1957 Địa chỉ: Thôn Â, xã D, huyện T , tỉnhThanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 23 giờ, ngày 11 tháng 6 năm 2020, tổ công tác Công an phường P, thành phố T trong lúc đang đi tuần tra tại khu vực trước số nhà 840 đường N, phường P, thành phố T, phát hiện Nguyễn Văn T điều khiển xe máy YAMEN WaWe màu xanh ngọc, BKS:36L5-7115 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu T dừng xe để kiểm tra. Lúc này,T đã chủ động giao nộp cho Công an 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. T khai đó là gói ma túy T mua về với mục đích sử dụng. Ngoài ra công an còn thu giữ 01 xe máy của T.

Tại bản két luận giám định số 1586/PC09 ngày 15/6/2020 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thanh Hoá giám định kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 2,462 gam, loại Methamphetanmine.

Tại cơ quan điều tra T khai nhận: Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 11/6/2020, Nguyễn Văn T4 (T4 Tiến) sinh năm 1988 ở thôn 3 xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa gọi điện hỏi T còn ma túy để sử dụng không. T trả lời đã hết và hỏi T4 biết chỗ nào mua ma túy để sử dụng không. T4 cho T số điện thoại 0977012136 của Nguyễn Văn C sinh năm 1976 ở thôn T, xã Đ, thành phố T và bảo T xuống cây xăng N, xã Đ, thành phố Thanh Hóa mua ma túy. Sau đó T một mình điều khiển xe máy đến cây xăng N gọi điện thoại vào số máy 0977012136. Khoảng 15 phút sau có một nam thanh niên mặc áo chống nắng đi Future màu xanh không biển kiểm soát ra gặp và bán cho T gói ma túy với giá 650.000 đồng. T cất giấu gói ma túy vào trong người đi về đến trước N, phường P, thành phố T thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ tang vật.

Tiến hành đối chất giữa T4 và T, T4 khai không cho T số máy của C, việc T có liên quan đến ma túy như thế nào T4 không biết.

Tiến hành đối chất giữa T và C: C khai tối ngày 11/6/2020 có số máy lạ gọi điện vào số máy của C nhưng không nói gì. C không quen biết T và không liên quan gì đến ma túy.

Do vậy không có căn cứ để xử lý đối với C và T4.

Đối với nam thanh niên T khai bán ma túy cho T, do T không biết tên địa chỉ nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thanh Hóa không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 279/ CT –VKSTPTH ngày 29/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017;đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T từ 30 (Ba mươi) tháng tù đến 36 (Ba mươi sáu) tháng tù.

Về vật chứng đề nghị áp dụng khoản 1, điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

Trả lại xe mô tô YAMEN WaWe màu xanh đậm BKS: 36L5-7115 cho ông Nguyễn Văn T2.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định. Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng. Bị cáo không có ý kiến bào chữa. Tại phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Văn T2) đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại xe máy cho ông theo quy định pháp luật.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên; kiểm sát viên; Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, một lần nữa bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận: Do nghiện ma túy nên vào 23 giờ ngày 11/6/2020 bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang thu giữ tang vật, qua giám định gói ma túy có khối lượng 2,462 gam, loại Methamphetanmine.

Bị cáo thừa nhận gói ma túy như kết luận giám định đúng là của bị cáo.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017.

[3]. Về tính chất vụ án: Tệ nạn và tội phạm về ma túy là hiểm họa cho toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến kinh tế, đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác, là tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về nhân thân và trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng nghiện hút. Ngày 28/7/2017 bị cáo có hành vi tàng trữ ma túy bị công an huyện T xử phạt hành chính bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục tàng trữ ma túy để sử dụng, chứng tỏ bị cáo xem T2 pháp luật. Với tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, việc cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ,lưu hành và không có giá trị nên tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc xe máy YAMEN WaWe màu xanh đậm, BKS:36L5-7115 bị cáo sử dụng vào việc đi mua ma túy quá trình điều tra xác định đây là xe của ông Nguyễn Văn T2 (bố bị cáo), ông T2 mua lại xe của chị Lê Thị Hà ở xã Xuân lai thị trấn Bến Sung, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa, việc T lấy xe đi mua ma túy ông T2 không biết, do vậy cần trả lại xe máy trên cho ông T2 là phù hợp.

Hiện vật chứng trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban T2 vụ Quốc Hội khóa 14.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 22/6/2020.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì được đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn T2 01 xe máy YAMEN WaWe màu xanh đậm BKS: 36L5-7115.

(Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 10/THA ngày 14/10/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án khoản tiền án phí HSST theo quy định tại Điều 7, Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HSST ngày 19/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về