Bản án 03/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 153/2019/HSST ngày 25 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Hoàng L; tên gọi khác: L; sinh năm: 1989; tại: Lâm Đồng; nơi ĐKNKTT và nơi cư trú: đường B, Phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; n giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: không rõ họ tên, nơi cư trú và mẹ nuôi: Trương Thị T, sinh năm 1951, nơi cư trú: đường B, Phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; vợ, con: Chưa có;

Tiền án: Tại bản án số 26/2017/HSST ngày 11/04/2017 cuả TAND Tp.B xử phạt 18 tháng tù giam về tội Cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 135 BLHS 1999. Chấp hành án xong ngày 07/02/2018.

- Tiền sự: 02 tiền sự

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 13/QĐ-XPVPHC ngày 31/12/2015 của Công an phường B, Tp.B về hành vi Trộm cắp tài sản, mức phạt 1.500.000 đồng. Bị cáo chưa chấp hành đóng phạt.

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPVPHC ngày 22/03/2016 của Công an phường B, Tp.B về hành vi Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác, mức phạt 1.500.000 đồng. Bị cáo chưa chấp hành đóng phạt.

- Nhân thân:

+ Quyết định số 1663/QĐ ngày 21/08/2013 của UBND Tp.B đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng.

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 112 ngày 13/04/2018 của Công an phường L, Tp.B về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, mức phạt 750.000 đồng. Bị cáo đã chấp hành đóng phạt.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 23/10/2019 cho đến nay. (có mặt)

- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1969; nơi cư trú: đường N, phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trương Hoàng L là đối tượng đã có 01 tiền án về tội Cưỡng đoạt tài sản chưa được xóa án tích, 02 tiền sự về hành vi Trộm cắp tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa chấp hành đóng phạt.

Vào khoảng 06 giờ ngày 17/10/2019, Trương Hoàng L đi bộ đến cửa tiệm tạp hóa “H” của ông Nguyễn Thanh H thì phát hiện cửa tiệm tạp hóa mở hé, không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. L nhìn vào trong cửa hàng thì phát hiện 03 thùng bia nhãn hiệu Tiger màu xanh, loại 24 lon xếp thành 01 chồng để gần cửa ra vào nên đã đi vào lấy 01 thùng bia Tiger, sau đó mang thùng bia đến khu vực gần khách sạn S trên đường A, phườngA, Tp.B bán cho một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch được số tiền 300.000 đồng tiêu xài cá nhân hết. Cơ quan CSĐT - Công an Tp.B không thu hồi được tài sản này.

Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 122 ngày 21/10/2019 của hội đồng định giá UBND TP.B xác định thùng bia nhãn hiệu Tiger Trương Hoàng L chiếm đoạt có giá trị 325.000 đồng.

Về vật chứng: Cơ quan CSĐT-Công an Tp.B tạm giữ và bàn giao kèm theo hồ sơ vụ án: 01 thẻ nhớ Micro SD, dung lượng 2Gb ghi nhận diễn biến hành vi phạm tội của Trương Hoàng L.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 23 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Trương Hoàng L về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trương Hoàng L thừa nhận toàn bộ nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo thừa nhận ngày 17/10/2019 bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 thùng bia Tiger với hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì nội dung của bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát rút phần truy tố điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố B; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến thắc mắc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Vào ngày 17/10/2019 lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu tài sản, bị cáo L đã lén lút chiếm đoạt của ông Nguyễn Thanh H 01 thùng bia Tiger, để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Theo bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 122 ngày 21/10/2019 của hội đồng định giá UBND TP.B xác định thùng bia nhãn hiệu Tiger Trương Hoàng L chiếm đoạt có giá trị 325.000 đồng, bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt 18 tháng tù của bản án số 26/2017/HSST ngày 11/4/2017 của TAND TP.B chưa được xóa án tích và 02 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nay tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới.

Đi với việc rút phần truy tố điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự 2015 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thấy rằng bị cáo L đã nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 13/QĐ-XPVPHC ngày 31/12/2015 của Công an phường B, Tp.B về hành vi Trộm cắp tài sản, mức phạt 1.500.000 đồng đến nay bị cáo chưa chấp hành đóng phạt và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ- XPVPHC ngày 22/03/2016 của Công an phường B, TP.B về hành vi Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác, mức phạt 1.500.000 đồng, bị cáo chưa chấp hành đóng phạt, như vậy không được xem là chưa bị xử phạt hành chính. Đối chiếu lời khai của bị cáo L; lời khai của bị hại và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm a, b khon 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất hành vi do bị cáo L thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện bị cáo coi thường kỷ cương pháp luật, hành vi trên không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương;

cần thiết phải áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Xét cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã bồi thường cho bị hại, vì vậy cần áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo trình bày có ông ngoại nuôi được tặng thưởng huân chương kháng chiến nhưng không có chứng cứ chứng minh nên không xem xét.

Về nhân thân: Năm 2016 Ủy ban nhâm dân thành phố B ra Quyết định số 1663/QĐ ngày 21/08/2013 của UBND Tp.B đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng và năm 2018 Công an phường L ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 112 ngày 13/04/2018 của Công an phường L, Tp.B về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, mức phạt 750.000 đồng. Bị cáo đã chấp hành đóng phạt.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm, Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng: 01 thẻ nhớ Micro SD, dung lượng 2Gb ghi nhận diễn biến hành vi phạm tội của Trương Hoàng L nên lưu theo hồ sơ vụ án.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đề cập đến.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Hoàng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trương Hoàng L 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về lệ phí, án phí tòa án. Buộc bị cáo Trương Hoàng L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Đối với bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về