Bản án 03/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 212/2019/HSST ngày 18 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Đoàn Văn C; sinh ngày 07/12/1986 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn T, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L (đã chết) và bà Đoàn Thị M, sinh năm 1955; có vợ: Vi Thị B, sinh năm 1989; con: Có 01 con sinh năm 2009; tiền án: Có 02 tiền án: Bản án số 03/2017/HSST ngày 16/01/2017 của TAND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số 151/2018/HSST ngày 10/9/2018 của TAND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 09/10/2019 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lạng Sơn. Có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Vũ Thị M; sinh năm 1953; trú tại: Số 35, P , phường T, thành phố L , tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Anh Lưu Công T; sinh năm 1989; trú tại: Số 35 đường B, khối M, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Vi Hồng Đ; sinh năm 1971; trú tại: Số 20 đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Anh Lưu Hồng Q; sinh năm 1992; trú tại: Thôn Đ, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Từ ngày 13/9/2019 đến ngày 06/10/2019, Đoàn Văn C đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ, ngày 13/9/2019, tại khu vực đầu ngõ A, đường B, phường V, thành phố L, Đoàn Văn C đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12P1-035.18 của anh Lưu Công T.

Vụ thứ hai: Khoảng 12 giờ, ngày 06/10/2019, tại khu vực cổng Đền K, đường B, phường V, thành phố L, Đoàn Văn C đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 12D1-108.70 của bà Vũ Thị M.

Tại Biên bản định giá tài sản số 198/ĐGTSTT ngày 07/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe mô tô Yamaha Sirius biển kiểm soát 12P1-035.18 trị giá 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng).

Tại Biên bản định giá tài sản số 199/ĐGTSTT ngày 08/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 12D1-108.70 trị giá 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra, bị cáo Đoàn Văn C khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 13/9/2019, Đoàn Văn C một mình đi bộ từ chợ Đ đến khu vực đầu ngõ A, đường B, phường V, thành phố L, phát hiện chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12P1-035.18 không khóa cổ, không có ai trông coi, Đoàn Văn C đã dắt xe đến bãi đất trước cửa Nhà văn hóa khối B, phường V, thành phố L, cậy yếm xe ra, dùng đinh buộc dây kích điện để nổ máy và điều khiển xe đến Nhà văn hóa thôn Đ, xã H, tháo biển kiểm soát xe vứt vào khu vực tường rào Nhà văn hóa. Đoàn Văn C sử dụng đến ngày 15/9/2019 thì đem đến khu vực chợ Đ nhờ một người đàn ông không quen biết cầm cố. Người đàn ông đưa Đoàn Văn C đến khu vực trước sảnh Trung tâm thương mại V, phường C, thành phố L cầm cố xe với một người phụ nữ không quen biết, không viết giấy tờ và nhận số tiền 2.000.000 đồng. Số tiền có được Đoàn Văn C đã tiêu xài cá nhân hết.

Khoảng 12 giờ, ngày 06/10/2019, Đoàn Văn C đi bộ từ phường C đến khu vực cổng Đền K thuộc đường B, phường V, thành phố L, phát hiện thấy 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 12D1-108.70 dựng trên vỉa hè gần cổng Đền K không có người trông coi, Đoàn Văn C đã dùng chìa khóa Honda nhặt được từ mấy hôm trước mở khóa điện, nổ máy và điều khiển xe đến Nhà văn hóa thôn Đ, xã H, tháo biển kiểm soát ra và lấy biển kiểm soát 12P1-035.18 lắp vào rồi điều khiển đến nhà anh Lưu Hồng Q tại thôn Đ, xã H cầm cố với anh Lưu Hồng Q vay 1.000.000đồng hẹn 10 ngày sau trả tiền và nói đó là xe của vợ, giấy tờ xe để ở nhà. Số tiền có được Đoàn Văn C đã tiêu xài cá nhân hết.

Bị hại, anh Lưu Công T khai: Chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12P1-035.18 là của anh mua lại với anh Vi Văn Đ đầu năm 2019 với giá 12.000.000đồng, chưa sang tên. Ngày 13/9/2019, anh để xe ở đầu ngõ A, đường B, phường V thì bị mất, nay vẫn chưa tìm thấy xe, anh yêu cầu bị cáo bồi thường 12.000.000 đồng.

Bị hại, bà Vũ Thị M khai: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 12D1-108.70 là của bà mua năm 2015 tại cửa hàng mua bán xe cũ ở đường B, phường H, thành phố L với anh Phạm Trung K, với giá 14.500.000đồng, giấy đăng ký xe vẫn mang tên chủ cũ là Hoàng Thị T, bà chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 06/10/2019 bà để xe trên vỉa hè gần cổng Đền K thì bị mất. Sau đó, Cơ quan điều tra thu hồi được và trả lại xe nên bà không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Vi Hồng Đ trình bày: Chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12P1-035 đăng ký tên anh, tuy nhiên, đầu năm 2019 anh đã bán lại cho anh Lưu Công T với giá 12.000.000 đồng, do là người quen nên hai bên không làm giấy tờ. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt anh.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKS, ngày 16 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đoàn Văn C về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn luận tội: Ngày 13/9/2019, bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản trị giá 6.000.000 đồng và ngày 06/10/2019, bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản trị giá 8.500.000 đồng, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tại sản; bị cáo có 2 tiền án chưa được xóa án tích, trong đó năm 2018 bị kết án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tình tiết tăng nặng tái phạm nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo có tình tiết tăng nặng phạm tội từ hai lần trở lên, có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị công nhận sự thỏa thuận của bị cáo với anh Lưu Công T, bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho bị hại anh Lưu Công T số tiền 12.000.000 đồng. Buộc bị cáo trả cho anh Lưu Hồng Q số tiền 1.000.000 đồng. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 chìa khóa hiệu Honda. Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Đoàn Văn C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy, ngày 13/9/2019, lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của chủ sở hữu tài sản, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt 01 Chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 12P1-035.18 của anh Lưu Công T, trị giá 6.000.000 đồng; ngày 06/10/2019, bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 Chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 12D1-108.70 của bà Vũ Thị M, trị giá 8.500.000 đồng; năm 2018 bị cáo bị kết án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tình tiết tăng nặng tái phạm, chưa được xóa án tích, do đó lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đoàn Văn C phạm tội Trộm cắp tài sản. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất bình trong trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ xâm phạm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài, lười lao động nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo mới đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Để quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, chưa bị xử lý, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; tại phiên tòa, bị hại anh Lưu Công T xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hồ sơ vụ án có bản sao Huy chương của ông Đoàn Kim L, Huân chương và Bằng Tổ quốc ghi công của liệt sĩ Đoàn Văn Y;

tại phiên tòa bị cáo trình bày ông Đoàn Kim L là ông ngoại và ông Đoàn Văn Y là bác ruột của bị cáo, mẹ bị cáo thờ cúng liệt sĩ. Tuy nhiên, ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu nào khác chứng minh gia đình bị cáo thờ cúng liệt sĩ và chứng minh quan hệ của bị cáo với ông Đoàn Kim L và liệt sĩ Đoàn Văn Y, do đó không có căn cứ xem xét.

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã 02 lần bị kết án nên xác định bị cáo có nhân thân xấu.

[7] Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, xét thấy, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh tại nơi cư trú cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại bà Vũ Thị M đã nhận lại xe mô tô và không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không đề cập xem xét giải quyết. Anh Lưu Công T yêu cầu bị cáo phải bồi thường 12.000.000 đồng do chiếc xe mô tô bị mất chưa thu hồi được, bị cáo nhất trí bồi thường. Do đó cần công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và anh Lưu Công T, bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho anh Lưu Công T 12.000.000 đồng.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lưu Hồng Q yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 1.000.000 đồng khi cầm cố xe, bị cáo thừa nhận được vay tiền và nhất trí trả lại anh Lưu Hồng Q số tiền trên, cần buộc bị cáo trả lại anh Lưu Hồng Q số tiền 1.000.000đồng.

[11] Về vật chứng: Chiếc chìa khóa hiệu Honda bị cáo dùng để mở khóa trộm xe là công cụ phạm tội cần tịch thu, tiêu hủy. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Lưu Công T chiếc biển kiểm soát 12P1-035.18 và trả lại cho bà Vũ Thị M chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 12D1-108.70.

[12] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[13] Đối với anh Lưu Hồng Q nhận cầm cố xe không biết đó là tài sản trộm cắp mà có nên không cấu thành tội phạm; đối với hành vi không đăng ký kinh doanh mà cho vay tiền, anh Lưu Hồng Q đã bị xử phạt hành chính theo quy định pháp luật. Đối với người đàn ông đưa bị cáo đi cầm cố và người phụ nữ nhận cầm cố chiếc xe Yamaha Sirius biển kiểm soát 12P1-035.18, do không rõ lai lịch của hai người này nên không có căn cứ điều tra xử lý.

[14] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Lạng Sơn về tội danh, hình phạt và các nội dung khác là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án và có trách nhiệm bồi thường nên phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 và Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[16] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 466, 584, 585, 586, 589, 357 và 468 của Bộ luật Dân sự; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn C phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam 09/10/2019.

3. Về bồi thường thiệt hại, trách nhiệm dân sự:

3.1. Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Đoàn Văn C và anh Lưu Công T, bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho anh Lưu Công T số tiền 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

3.2. Buộc bị cáo trả lại anh Lưu Hồng Q số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu bên phải thi hành chậm trả thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

4. Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 chìa khóa nhãn hiệu Honda.

(Vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/12/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

5. Về án phí: Buộc bị cáo Đoàn Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 650.000 đồng (sáu trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về