Bản án 03/2020/HS-ST ngày 07/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 03/2020/HSST NGÀY 07/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 166/2019/HSST ngày 02 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2019/QĐXXST-HS ngày 24/12/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Huy D, sinh năm: 1988.Tên gọi khác: không. Nơi ở và nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình.Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa:12/12. Nghề nghiệp: lao động tự do. Con ông Nguyễn Hồng Đ và bà Lê Thị Â.Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/9/2019 đến ngày 30/9/2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. Có mặt.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1991.

Trú tại: Số nhà 47, đường B, phố N, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Hồng Đ, sinh năm: 1939

 Địa chỉ: Thôn P, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

Người làm chứng: Bà Phạm Thị L.

Cháu Bùi Vân N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu sài cá nhân nên chiều ngày 23/9/2019, Nguyễn Huy D một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, biển kiểm soát 51X7 – 2049 đi từ nhà ở thôn Phú Sơn, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, đi vòng quanh qua các tuyến đường trên địa bàn thành phố Ninh Bình để tìm tài sản chiếm đoạt. Khi đi đến cửa hàng làm tóc Anh L của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1991, trú tại: Số nhà 47, đường Bùi Thị Xuân, phố Ngô Quyền, phường Nam Bình, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, D dừng xe rồi đi vào trong nhà lấy lý do hỏi mua keo xịt tóc để quan sát tài sản sơ hở của gia đình. Lúc này D phát hiện thấy một chiếc máy tính bảng hiệu Ipad Air 2 màu vàng, ốp ngoài bằng da màu nâu để trên ghế sopha ở phòng khách. Do trong nhà đang có người nên D quay xe mô tô điều khiển đi lòng vòng chờ cơ hội quay lại trộm cắp tài sản. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Nguyễn Huy D điều khiển xe mô tô quay lại của hàng làm tóc của chị Nguyễn Thị L, quan sát không có ai trông coi, D dựng xe ở bên ngoài đường, mở khóa điện chờ sẵn, sau đó vào nhà dùng tay phải nhặt chiếc máy tính bảng ở trên ghế sopha, dấu vào trong bụng, rồi nhanh chóng ra xe mô tô bỏ trốn về nhà tại thôn Phú Sơn, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Về đến nhà, D giấu chiếc Ipad vừa trộm được ở đầu giường trong phòng ngủ của mình. Sau khi phát hiện gia đình bị trộm cắp tài sản, chị Nguyễn Thị L đã có đơn trình báo đến cơ quan Công an. Qua điều tra xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã triệu tập Nguyễn Huy D lên làm việc, tại đây D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Huy D tại thôn Phú Sơn, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh đã thu giữ 01 chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Air 2, màu vàng có vỏ ốp màu nâu ghi chữ “kaku”. Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Huy D 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh biển kiểm soát 51X 7 – 2049.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 78 ngày 25/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận 01 chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Air 2, màu vàng số máy MH172IH/A, số seri DMPNW4BOG5YN có vỏ ốp màu nâu ghi chữ “Kaku” có giá trị 4,2 triệu đồng.

Quá trình điều tra vụ án, bị cáo Nguyễn Huy D đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Chiếc máy tính bảng nói trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị L, chị L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 01 chiếc xe mô tô thu giữ của Nguyễn Huy D nói trên, đăng ký xe mang tên anh Nguyễn Văn Đ sinh năm 1976, trú tại phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh là anh trai của D. Năm 2015, anh Điệp đã tặng cho bố đẻ là ông Nguyễn Hồng Đ. Ngày 23/9/2019, D sử dụng chiếc xe nói trên để đi trộm cắp, ông Đ không biết. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe nói trên cho ông Đ, ông Đ đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì. 

Tại bản Cáo trạng số 169/CT-VKS ngày 27/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Huy D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Nguyễn Huy D phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Huy D từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Nguyễn Huy D cho Ủy ban nhân dân xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Khánh Phú nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án, được trừ 06 ngày tạm giữ tương ứng với 18 ngày cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo. Miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng đối với bị cáo.Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết do người bị hại không có yêu cầu. Về xử lý vật chứng: Không có. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời gian luật định.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên và đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội Dng vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2].Về tội danh và hình phạt: Khoảng 19 giờ ngày 23/9/2019, tại số nhà 47, đường Bùi Thị Xuân, phố Ngô Quyền, phường Nam Bình, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Huy D đã có lợi dụng sơ hở của chủ nhà, đã lén lút vào chiếm đoạt 01 chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Air 2 của chị Nguyễn Thị L nhằm mục đích đem bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Trị giá tài sản chiếm đoạt là 4.200.000đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Huy D phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản khám xét và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Huy D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được luật Hình sự bảo vệ, do vậy cần phải được xử lý trước pháp luật. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không có; về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, về nhân  thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, giá trị tài sản phạm tội không lớn, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên không cần thiết phải cách L bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho Chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục là cũng có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Thời gian bị cáo bị tạm giữ được đối trừ vào thời gian cải tạo không giam giữ. Cứ 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo bị tạm giữ 6 ngày, tương ứng là 18 ngày cải tạo không giam giữ. Do bị cáo lao động tự do thu nhập không ổn định nên cần miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3].Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị L là người bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có đề nghị gì nên vấn đề trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.

[4]. Các vấn đề khác: Chiếc xe máy mà bị cáo D sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản của ông Nguyễn Hồng Đ (bố bị cáo được tặng cho). Ông Đ không biết việc bị cáo D sử dụng xe để đi trộm cắp nên cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho ông Đ là phù hợp.

[5]. Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6]. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Huy D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Nguyễn Huy D 10 (mười) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 06 ngày tạm giữ (bằng 18 ngày cải tạo không giam giữ). Bị cáo còn phải chấp hành 9 (chín) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Nguyễn Huy D cho Ủy ban nhân dân xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Gia đình bị cáo Nguyễn Huy D có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng cho bị cáo Nguyễn Huy D.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định  về mức thu miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Huy D phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

 Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

358
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 07/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về