Bản án 03/2020/DS-ST ngày 31/05/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH

 BẢN ÁN 03/2020/DS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Vào hồi 07 giờ 10 phút, ngày 31tháng 05 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 02/2021/TLST-DS ngày 24 tháng 02 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXX-ST ngày 22/04/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 218/2021/QĐST-DS ngày 14/05/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc T, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh II (Theo Văn bản ủy quyền số:2965/QĐ-NHNo-PC ngày 27/12/2019 của HĐTV Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam);

- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Quốc T: Ông Đặng Xuân H, chức vụ: Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh II (Theo Văn bản ủy quyền ngày 22/ 03/2021). Địa chỉ: Tổ dân phố 5, thị trấn Hương Khê, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H; Đều trú tại: xóm 1, xã H, huyện H, tỉnh Hà T. (Vắng mặt không rõ lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 24/12/2020, bản tự khai, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh II và vợ chồng chị Mai Diễm L, anh Hồ Viết H ký Hợp đồng tín dụng số 28/2017/HĐTD, ngày 16/03/2017 vay với số tiền là 45.000.000đ, dư nợ hiện tại là 37.900.000đ, lãi suất cho vay là 9,5%/năm, thời hạn vay 36 tháng, kể từ ngày 16/03/2017. Hình thức đảm bảo tiền vay bằng tín chấp. Ngày 16/3/2020 khoản vay này đến hạn nhưng khách hàng anh H, chị L làm ăn kinh doanh gặp khó khăn nên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam - Chi nhánh huyện Hương Khê Hà Tĩnh II đồng ý cho gia hạn thêm 03 năm, thời hạn trả nợ đến ngày 16/3/2023, khoản vay này đã lâu không nộp lãi, Ngân hàng đã gửi thông báo đòi nợ nhiều lần nhưng anh H, chị L không trả theo cam kết ghi trong hợp đồng và ngày 30/8/2018 Ngân hàng tiếp tục cho kỷ Hợp đồng tín dụng số: 3707LAV201803827 vay với số tiền 300.000.000đ (chia 2 lần giải ngân cho vay, lần 1 vào ngày 30/8/2020 là 250.000.000đ và lần 2 vào ngày 17/10/2020 là 50.000.000đ), dư nợ hiện tại là 300.000.000đ, lãi suất cho vay 11%/năm. Thời hạn cho vay 12 tháng, kể từ ngày 30/08/2018. Hình thức bảo đảm tiền vay là thế chấp tài sản. Đến ngày 30/08/2019 khoản vay này đến hạn nhưng anh H, chị L làm đơn xin gia hạn do làm ăn khó khăn nên Ngân hàng đồng ý cho gia hạn thêm 1 năm, đến ngày 30/08/2020 đến hạn trả nợ nhưng vợ chồng anh H, chị L không trả, khoản nợ này được chuyển sang nợ quả hạn kể từ này 31/08/2020. Ngân hàng đã thông báo chuyển nợ quá hạn và yêu cầu trả nợ nhưng anh H, chị L không trả.

Để đảm bảo khoản vay theo hợp đồng tín dụng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cùng với chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản số: 01//HĐTC, ngày 29/ 08/2018, gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 352342, do UBND huyện Hương Khê cấp ngày 28/08/2018 mang tên Hồ Viết H và chị Mai Diễm L, thửa đất số: 41, tờ bản đồ số: 15,có diện tích 992 m2; Tài sản gắn liền với đất là: Ngôi nhà gỗ 2 gian xây bao, mái ngói; trần cửa, vách ốp bằng gỗ; sàn tường ốp gạch; 2 cửa cuốn; mái hiên bằng tôn, xã gồ thép, trụ bê tông và các công trình phụ trợ, tại xóm 1, xã H, huyện H tỉnh H mang tên vợ chồng chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H.

Tại phiên tòa, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê Hà Tĩnh II, đề nghị Tòa án buộc chị L, anh H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền tính đến ngày 31/5/2021 là: 432.678.777đ. Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm chị L, anh H phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo 2 Hợp đồng tín dụng đã ký. Nếu khách hàng không trả đầy đủ số nợ trên đề nghị xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng.

Bị đơn chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H không có mặt tại Tòa án theo các thông báo triệu tập và cũng không có ý kiến trình bày gửi Tòa án.

- Ý kiến của vị đại diện VKSND huyện Hương Khê tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H không có mặt tại Tòa án để ghi bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy thông báo của Tòa án. Bị đơn chị L, anh H vắng mặt hai lần tại phiên tòa không rõ lý do đã vi phạm Điều 70 và Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị Tòa án căn cứ vào khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Các Điều 116, 117,119, 298, 299, 317, 318, 319, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015. Các Điều 91, 95, 98 Luật các Tổ chức tín dụng; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam. Buộc bị đơn chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam tổng số tiền là: 432.678.777đ, trong đó tiền nợ gốc là 337.900.000đ, nợ lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 31/5/2021) là: 94.778.777đ. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, chị L, anh H tiếp tục phải chịu tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký số 28/2017/HĐTD, ngày 16/03/2017 và Hợp đồng tín dụng số:

3707LAV201803827, ngày 30/8/2018. Tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp tài sản số 01/HĐTC, ngày 29/8/2018 cho đến khi anh H, chị L thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ. Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định, trả lại cho nguyên đơn tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án về tranh chấp Hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê - Hà Tĩnh II với bị đơn là chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H có địa chỉ tại xóm 1, xã Hương Liên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

[2] Về việc vắng mặt bị đơn chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Hồ Viết H và chị Mai Diễm L biết để đến Tòa án trình bày ý kiến và giải quyết vụ án nhưng anh H, chị L không đến Tòa án. Do đó, Tòa án đã lập biên bản về việc không thực hiện được việc tống đạt, đồng thời tiến hành thủ tục niêm yết công khai văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 177, 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án cũng đã tống đạt văn bản tố tụng triệu tập hợp lệ bị đơn chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết Hoài tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng bị đơn chị Ly, anh H vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H.

[3] Về nội dụng: Việc ký kết hợp đồng giữa chị Mai Diễm L, anh Hồ Viết Hvới Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh II trên cơ sở tự nguyện; những người tham gia ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền, đủ năng lực pháp luật và hành vi dân sự; hình thức, nội dung hợp đồng không vi phạm các điều cấm, không trái pháp luật. Như vậy, nội dung và hình thức hợp đồng đã tuân thủ Điều 116, 117, 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 khi giao kết, nên xác định là Hợp đồng hợp pháp. Vì vậy, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các bên và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng.

Quá trình thực hiện Hợp đồng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê - Hà Tĩnh II, đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình là cho chị L và anh H vay tiền theo hợp đồng tín dụng, nhưng chị L, anh H không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết. Do chị L, anh H vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã khởi kiện ra Tòa án theo Điều 5, 9 của Hợp đồng tín dụng ký ngày 16/03/2017 và Điều 5, 8 của Hợp đồng tín dụng ký ngày 30/08/2018 là có căn cứ.

[4] Về nghĩa vụ trả nợ: Do chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H không thực hiện trả nợ theo như cam kết tại các hợp đồng, do đó Ngân hàng đã khởi kiện để thu hồi lại khoản vay là có căn cứ phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn đã cung cấp và phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do vậy buộc bị đơn anh H, chị L phải trả nợ cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam- Chi nhánh huyện Hương Khê II số tiền 432.678.777đ, trong đó tiền nợ gốc là 337.900.000đ và tiền lãi trong hạn là 83.206.174đ, tiền lãi quá hạn là 11.572.603đ, tính đến ngày xét xử sơ thẩm (31/05/2021). Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, chị L, anh H tiếp tục phải chịu tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận đã ký kết trong Hợp đồng tín dụng số dụng số 28/2017/HĐTD, ngày 16/03/2017 và Hợp đồng tín dụng số: 3707LAV201803827, ngày 30/8/2018.

[5] Về Hợp đồng thế chấp và xử lý tài sản thế chấp: Hợp đồng thế chấp tài sản số: 01/HĐTC, ngày 29/08/2018, được ký kết giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hương Khê, Hà Tĩnh II với chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H là để đảm bảo khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số3707LAV201803827, ngày 30/8/2018, theo đó vợ chồng anh H, chi L tự nguyện dùng tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất diện tích tích 992 m2 và tài sản trên đất gồm: Nhà gỗ 3 gian xây bao và nhà xây cấp 4 lợp ngói và toàn bộ tài sản gắn liền với nhà và đất tại thửa đất số 41, tờ bản đồ số 15, tại xóm 1 xã H, huyện H, tỉnh Hà T theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 352342, do UBND huyện Hương Khê cấp ngày 28/08/2018 mang tên Hồ Viết H và chị Mai Diễm L.

Xét thấy Hợp đồng thế chấp được ký kết là đúng quy định, nội dung và hình thức, thời điểm ký kết giữa các bên được xác định là hợp pháp. Do đó, trường hợp vợ chồng anh Hồ Viết H và chị Mai Diễm L không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo cam kết, thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê II có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất theo hợp đồng thế chấp tài sản số 01/HĐTC, ngày 29/8/2018, để Ngân hàng xử lý, thu hồi khoản vay theo hợp đồng tín dụng số:

3707LAV201803827, ngày 30/8/2018 đã ký kết.

Vì vậy, cần tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp tài sản số 01/HĐTC, ngày 29/8/2018 cho đến khi anh H, chị L thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.

Đề nghị của đại diện Viên kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn đã nộp là 20.480.000đ. Buộc bị đơn chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 116, 117,119, 298, 299, 317, 318, 319, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015. Các Điều 91, 95, 98 Luật các Tổ chức tín dụng; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê - Hà Tĩnh II. Buộc vợ chồng chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hương Khê - Hà Tĩnh II, tổng số tiền là: 432.678.777đ ( Bốn trăm ba mươi hai triệu sau trăm bảy mươi tám ngàn bảy trăm bảy bảy đồng), trong đó tiền nợ gốc là 337.900.000đ (Ba trăm ba mươi bảy triệu chín trăm ngàn đồng), nợ lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 31/5/2021) là: 94.778.777đ (Chín mươi tư triệu bảy trăm bảy mươi tám ngàn bảy trăm bảy bảy đồng). Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (31/05/2021), chị L, anh H tiếp tục phải chịu tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký số 28/2017/HĐTD, ngày 16/03/2017 và Hợp đồng tín dụng số: 3707LAV201803827, ngày 30/8/2018.

Trường hợp bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hương Khê, Hà Tĩnh II, có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, theo hợp đồng thế chấp tài sản số 01/HĐTC, ngày 29/8/2018.

2. Về án phí: Buộc chị Mai Diễm L và anh Hồ Viết H phải nộp:

21.307.151 đ (Hai mốt triệu ba trăm linh bảy ngàn một trăm năm mốt đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hương Khê, Hà Tĩnh II số tiền 20.480.000đ (Hai mươi triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2019/0004622, ngày 22/2/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 03/2020/DS-ST ngày 31/05/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:03/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về