Bản án 03/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 03/2018/HSST ngày 15/01/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Hôm nay ngày 15 tháng 01 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 323/2017/HSST ngày 14 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Anh A, sinh năm 1966; ĐKNKTT và ở: xã B, huyện C, tỉnh D; Văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: E, sinh năm 1935; Con bà: F, sinh năm 1940; Vợ: G, sinh năm 1970 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 1991.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/9/2017, đến ngày 08/10/2017 chuyển qua bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 của Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:  Anh H, sinh năm 1972.  NKTT: Phòng 920 tòa nhà CT1,

Khu đô thị I, phường J, quận K, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 28/9/2017, Anh A đi cùng anh L (sinh năm 1976 ở khu tập thể N, M, N, Hà Nội) đến bãi trông giữ xe số 181, N, phường J, K, Hà Nội để A lấy đồ trên xe ô tô BKS 29A-577.41. Đến nơi anh L đứng ngoài cổng còn A đi vào bàn uống nước ở cuối bãi giữ xe gặp anh O (sinh năm 2000 ở khu 10, P, Q, R) là nhân viên trông xe. A nhờ anh O mở cửa xe ô tô BKS 29A-577.41 để A lấy đồ nhưng anh O từ chối: Vì anh T (sinh năm 1957 ở số 46 đường S, W, Hà Nội) không thuê A lái xe ô tô BKS 29A-577.41 nữa, anh H (sinh năm 1972 ở phường J, K) quản lý bãi gửi xe đến đuổi A ra khỏi bãi xe. Khoảng 19 giờ 35 phút cùng ngày, A quay lại bãi gửi xe lấy mũ bảo hiểm để quên ở bàn uống nước nhưng anh H cầm 01 chiếc điếu cày bằng tre giơ về phía A và không cho A vào bãi gửi xe nên giữa hai người xảy ra giằng co thì anh O xông vào can ngăn. Trong lúc giằng co, A giằng được chiếc điếu cày tre (dài 67 cm, đường kính 4,5 cm) vụt người anh H nên anh H giơ tay trái lên đỡ thì bị trúng vào cánh tay gây thương tích. Lúc này, A bỏ chạy ra cổng bãi xe 181 thì bị Công an phường J, K đang tuần tra kiểm soát phát hiện bắt giữ quả tang A cùng vật  chứng.

Vật chứng thu giữ 01 chiếc điếu cày bằng tre dài khoảng 67 cm đường kính 4,5 cm thân điếu có hoa văn đốm đen, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen của Anh A.

Cùng ngày, anh H được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện 198 Bộ công an, đến ngày 06/10/2017 ra viện.

Tại biên bản Giám định pháp y số 915 GDPY ngày 26/10/2017 của Trung tâm Giám định pháp y Hà Nội xác định thương tích của H và kết luận:

1.  Vết thương mổ cánh tay trái: 04%

2.  Gãy 1/3 giữa xương cánh tay trái còn phương tiện kết xương: 15%

Nhiều khả năng có các thương tích do vật này gây nên.

Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 18% (ba mươi lăm phần trăm) tính theo phương pháp cộng lùi.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định pháp y thương tích số 915/TTPY ngày 26/10/2017 của Trung tâm pháp y Hà Nội.

Về dân sự: gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh H 20.000.000 đồng, anh H viết đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại Cơ quan Cảnh sát, Anh A khai nhận tội.

Tại Cáo trạng số 297/CT-VKS ngày 30/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm quyết định truy tố bị cáo Anh A về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự 1999. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt Anh A 24 đến 30 tháng tù giam.

Về dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Bị cáo và Kiểm sát viên không có ý kiến gì về Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo cũng như phần luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Bị cáo trong lời nói sau cùng cũng nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về xã hội để giúp đỡ gia đình và trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:Khoảng 19 giờ 40 phút ngày 28/9/2016 tại Bãi xe số 181 đường N, J, K, Hà Nội, Anh A thực hiện hành vi dùng điếu cày bằng tre dài 67 cm, đường kính 4,5 cm đánh vào phía tay trái anh H gây thương tích 18% thì bị Công an phường J phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của  bị cáo Anh A phạm  tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2  Điều 104 (trường hợp điểm a khoản 1) Bộ luật Hình sự 1999 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 (trường hợp điểm a khoản 1) của Bộ luật Hình sự 1999 thì:

"1 – Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30 % hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a.  Dùng hung khí nguy hiểm

2- Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60 % hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm".

Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự xã hội, nên cần được xét xử nghiêm minh theo quy định để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu vị xét xử, bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại có lỗi một phần và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, gia đình bị cáo là người có công với cách mạng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 cần áp dụng cho bị cáo.

Với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự  và xem xét về nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo.

Về dân sự: Người bị hại  là anh H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc điếu cày bằng tre dài khoảng 67cm đường kính 4,5cm.

Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Anh A phạm tội “Cố ý gây thương tích".

Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47, Điều 33 Bộ luật Hình sự 1999

Xử phạt Anh A 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/9/2017.

2. Về dân sự: Không

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) điếu cày bằng tre dài khoảng 60cm, đường kính 4,5cm.

(Theo biên bản bàn giao, nhận vật chứng số 35 ngày 18/12//2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm).

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 135; Khoản 2 Điều 136 - Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 28 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:03/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về