TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 05/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 01 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 206/2017/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 225/2017/HSST-QĐ ngày 18 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Trung Đ; tên thường gọi khác: Tý; sinh ngày 05 tháng 4 năm 1995 tại tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú: ấp M, xã N, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Hiếu T và bà Nguyễn Thị A; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: không; bị bắt, tạm giam ngày 27/7/2017. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 35 phút ngày 27/7/2017, tổ công tác Công an xã Nhị Bình tuần tra trên đường Bùi Công Trừng khi đến trước Ban nhân dân Ấp 1, xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện Trần Trọng T đang điều khiển xe gắn máy biển số: 75B1 - 117.59 chở Nguyễn Trung Đ có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tổ công tác yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện, thu giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu trong quần đùi Đ đang mặc, Đ thừa nhận là ma túy đá của mình. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ và mời T về cơ quan làm việc; tiến hành thu giữ vật chứng niêm phong và lập hồ sơ ban đầu chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn xử lý.
Vật chứng:
- Thu giữ của Nguyễn Trung Đ: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6300 màu đỏ;
- Thu giữ của Trần Trọng T: 01 dao lam; 01 cây kéo nhỏ bằng kim loại màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Q-Mobile màu trắng bạc; 01 xe gắn máy hiệu Honda, biển số: 75B1 - 117.59, số khung: LALTCJNOX51056860, số máy: SOH1P5201H-B51028952.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Trung Đ khai nhận: Bản thân nghiện ma túy đá từ tháng 8/2016 đến nay. Khoảng 18 giờ ngày 26/7/2017, Đ đang sử dụng ma túy ở đồng mã thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì có 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ lai lịch) đến gặp nhờ Đ đến chợ Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nhận gói ma túy đá mang về dùm và hứa cho Đ tiền công là 7.000.000 đồng. Người đàn ông này yêu cầu Đ đến quán nước mía ở chợ Bến Thành ngồi đợi sẽ có người đến hỏi “Đi không?”, Đ chỉ cần trả lời “Đi” thì người này sẽ dẫn Đ đi lấy ma túy và Đ đồng ý. Người đàn ông này đưa trước cho Đ số tiền 500.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6300 màu đỏ để liên lạc. Sáng ngày 27/7/2017, Đ nhờ T chở đến chợ Bến Thành và hứa sẽ trả tiền công cho T là 1.000.000 đồng nên T đồng ý. Khoảng 17 giờ ngày 27/7/2017, người đàn ông này đưa cho Đ số tiền 21.000.000 đồng để đi lấy gói ma túy. Đ nhận tiền rồi nhờ T chở đến quán nước mía ở chợ Bến Thành. Lúc này, có 01 người đàn ông chạy xe ôm (không rõ lai lịch) đến chở Đ đi gặp 01 người thanh niên mặc áo khoác màu đen (không rõ lại lịch) để nhận 01 gói ma túy đá, Đ nhận gói ma túy cất vào bên trong quần đang mặc và đưa lại số tiền 21.000.000 đồng cho người thanh niên rồi quay lại gặp T ra về. Khi cả hai đến khu vực xã Nhị Bình thì bị Công an xã Nhị Bình phát hiện bắt quả tang.
Đối với Trần Trọng T, do không biết việc Đ thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không có cơ sở xử lý.
Đối với người đàn ông nhờ Đ đi lấy ma túy, người đàn ông chạy xe ôm dẫn Đ đi lấy ma túy và người thanh niên mặc áo khoác màu đen đã đưa gói ma túy cho Đ, do không rõ lai lịch, không có cơ sở xử lý nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra truy xét sau.
Tại Bản kết luận giám định số: 1310/KLGĐ-H ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Nguyễn Trung Đ và hình dấu Công an xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 49,8217 g, loại Methamphetamine.
Tại Bản cáo trạng số: 210/Ctr-VKS ngày 28 tháng 11 năm 2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn giữ quyền công tố tại phiên tòa xác định: Căn cứ vào lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai tại phiên tòa hôm nay của bị cáo cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Đ từ 09 năm đến 10 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trung Đ khai nhận: Vào khoảng 23 giờ 35 phút ngày 27/7/2017, khi Trần Trọng T điều khiển xe gắn máy biển số: 75B1 -117.59 chở bị cáo đến trước Ban nhân dân Ấp 1, xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn, thì bị Công an xã Nhị Bình yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang trên người của bị cáo có 01 gói nylon chứa ma túy đá đúng như nội dung Cáo trạng truy tố.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án như: Bản kết luận giám định số: 1310/KLGĐ-H ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: “Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Nguyễn Trung Đ và hình dấu Công an xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 49,8217g, loại Methamphetamine”.
[3] Như vậy, có đủ cơ sở chứng minh bị cáo Nguyễn Trung Đ có hành vi tàng trữ trái phép 49,8217g, loại Methamphetamine và bị Công an xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn phát hiện bắt quả tang vào ngày 27/7/2017 tại trước Ban nhân dân Ấp 1, xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Bản Cáo trạng số: 210/Ctr-VKS ngày 28 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Trung Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ và đúng pháp luật.
Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
m) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam;”
[4] Áp dụng điều luật viện dẫn nêu trên cho thấy, hành vi phạm tội của bịcáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc tàng trữ chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp, vi phạm pháp luật hình sự. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
[5] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với cách mạng. Từ đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
[6] Ý kiến đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt đối với bị cáo của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Đối với Trần Trọng T, do không biết Nguyễn Trung Đ thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không có cơ sở xử lý. Đối với người đàn ông nhờ Đ đi lấy ma túy, người đàn ông chạy xe ôm dẫn Đ đi lấy ma túy và người thanh niên mặc áo khoác màu đen đã đưa gói ma túy cho Đ, do không rõ lai lịch, không có cơ sở xử lý nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra truy xét sau là phù hợp.
[9] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 gói niêm phong số vụ 1310/2017, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Hải Đăng thuộc loại vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6300 màu đỏ do có liên quan đến việc tàng trữ ma túy, nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước;
- Đối với 01 dao lam, 01 cây kéo nhỏ bằng kim loại màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Q-Mobile màu trắng bạc, 01 xe gắn máy hiệu Honda, biển số: 75B1 -117.59, số khung: LALTCJNOX51056860, số máy: SOH1P5201H-B51028952 thu giữ của Trần Trọng T, do không có liên quan đến việc tàng trữ ma túy, nên Cơ quan điều tra đã giao cho Công an xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn để trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.
[10] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm m khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Trung Đ 09 (chín) năm, 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 27/7/2017.
Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số vụ 1310/2017, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Hải Đăng.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6300 màu đỏ.
Vật chứng của vụ án do Công an huyện Hóc Môn đang quản lý theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 144/PNK ngày 31/8/2017 của Công an huyện Hóc Môn.
Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Nguyễn Trung Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 03/2018/HS-ST ngày 05/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 03/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về