TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN – TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 03/01/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 01 năm 2018, tại Trụ sở TAND Thanh Miện xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2017/HSST ngày 03-10-2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2017/HSST- QĐXX ngày 23 tháng 10 năm 2017, Quyết định hoãn phiên toà số 13/2017/QĐ-TA ngày 07-12-2017 và Quyết định hoãn phiên toà số 14/2017/QĐ-TA ngày 21-12-2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Quốc B (tên gọi khác: Thích Thanh T), sinh năm: 1972.
ĐKHKTT: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương;
Nghề nghiệp: Nhà sư; Trình độ văn hoá: lớp 10/12.
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Nguyễn Quốc B và bà Mai Thị V (đều đã chết);
Gia đình có ba anh em, B là con thứ ba; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Bản án hình sự phúc thẩm số 94/2017/HSPT ngày 24-11-2017của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên theo lệnh của các cơ quan tố tụng tỉnh Hưng Yên trong vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, có mặt.
- Nguyên đơn dân sự: Nhân dân thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị N- Trưởng thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Đinh Văn H, sinh năm 1962- Phó thôn T, xã T,huyện T, tỉnh Hải Dương, có mặt. (Theo văn bản uỷ quyền ngày 02-01-2018)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đinh Bá D, sinh năm 1987; Trú quán: thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh T, vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986;
Trú tại: thị trấn A, huyện Q, tỉnh T, vắng mặt.
+ Anh Vũ Duy Th, sinh năm 1995;
Trú tại: Thôn H, xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Quốc B (tên gọi khác Thích Thanh T) được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh H giao trụ trì chùa P của thôn T từ năm 2001 và được nhân dân thôn T giao quản lý toàn bộ tài sản trong chùa, trong đó có chiếc chuông bằng đồng (năm2016, chiếc chuông được Bảo tàng tỉnh H thuộc Sở văn hoá thể thao và du lịch công nhận là cổ vật).
Do không có tiền chi tiêu và trả nợ, B đã nảy sinh ý định bán chiếc chuông và giả như bị mất trộm. Chiều ngày 13-6-2017, B gọi điện thoại cho anh Đinh Bá D ở thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh T gạ bán chiếc chuông chùa P với giá 9.000.000 đồng, anh D đồng ý. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày, anh D nhờ anh Nguyễn Văn T làm nghề lái xe ô tô chở D đến chùa P gặp B để mua chuông. Khi anh D đến, B mở cửa gian Tam Bảo để D vào xem chuông, sau khi xem chuông, anh D trả B số tiền 9.000.000 đồng, B cầm tiền và đi ra khỏi chùa. Anh D nhờ T và anh Vũ Duy Th ởthôn H, xã C, huyện T tháo chuông mang ra xe của anh T chở về nhà. B mang số tiền bán chuông trả nợ cho anh Nguyễn Ngọc Tr ở xã Đ, huyện Đ, TP H.
Kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐG ngày 26-7-2017 của Hội đồngđịnh giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Thanh Miện xác định: Chiếc chuông được công nhận là cổ vật có niên đại năm Tự Đức thứ 4 (1851) nhưng Hội đồng định giá không xác định được giá trị cổ vật; chiếc chuông trị giá 5.180.000 đồng.
Do Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Miện không xác định được giá trị cổ vật của chiếc chuông. Ngày 03-8-2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện đã Quyết định trưng cầu định giá lại đối với chiếc chuông. Tại kết luận định giá lại tài sản số 2280/KL-HĐĐG ngày 14-9-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Hải Dương gồm: Sở tài chính, Sở văn hoá thể thao và du lịch, Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng tỉnh Hải Dương định chiếc chuông trị giá 29.600.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 42/VKS-HS ngày 26-10-2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện truy tố bị cáo Nguyễn Quốc B (tức Thích Thanh T) về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tại phiên toà: Bị cáo nhận tội như tại Cơ quan điều tra, nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bịcáo.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc B (tức Thích Thanh T) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 140; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc B (tức Thích Thanh T) từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ, có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Quốc B được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh H quyết định giao trụ trì và được nhân dân thôn T giao quản lý tài sản chùa P. Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 13-6-2017, B đã bán chiếc chuông bằng đồng có niên đại năm Tự Đức thứ 4 (1851) trị giá 29.600.000 đồng là tài sản của nhân dân thôn T đóng góp cho anh Đinh Bá D được 9.000.000 đồng trả nợ cá nhân. Hành vi của bị cáo là hành vi có được tài sản sau khi được nhân dân thôn T giao quản lý thông qua sự tín nhiệm, dùng thủ đoạn gian dối (tạo hiện trường giả như bị kẻ gian trộm cắp chuông) nhằm chiếm đoạt tài sản đã cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy cáo trạng VKSND huyện Thanh Miện truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật.
[2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân là nhà sư có nhiệm vụ phụng sự tín ngưỡng tôn giáo (Phật giáo) cho nhân dân, nhưng do bản chất ham chơi, lười lao động đã chiếm đoạt tài sản của người khác trái pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín và sự tôn nghiêm của phật giáo, do vậy, cần phải xem xét, xử lý nghiêm.
[3] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân của bị cáo thì thấy: Ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội tại địa bàn huyện Thanh Miện, bị cáo tiếp tục có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tại địa bàn tỉnh Hưng Yên và bị TAND tỉnh Hưng Yên kết án 02 năm 09 tháng tù, tại bản án phúc thẩm số 94/2017/HSPT ngày 24/11/2017. Tuy nhiên do cùng thời thiểm bị cáo thực hiện hành vi tội phạm ở hai địa bàn khác nhau, hành vi phát hiện trước được xét xử sau, hành vi phát hiện sau được xét xử trước nên lần phạm tội này, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”, nhưng điều đó chứng tỏ bị cáo là người có nhân thân không tốt. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
Mặc dù quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tài sản chiếm đoạt đã kịp thời được thu hồi trả lại cho nhân dân thôn T nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, vì vậy HĐXX xem xét để giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Song với tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung trong xã hội. Do đến nay, bản án hình sự phúc thẩm số 94/2017/HSPT ngày 24-11-2017 của TAND tỉnh Hưng Yên đã có hiệu lực pháp luật, TAND huyện P, tỉnh Hưng Yên đã ra Quyết định thi hành hình phạt tù, nên cần tổng hợp hình phạt của bản án trên với hình phạt của bản án mới, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án theo quy định tại Điều 51 BLHS năm 1999
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với nghề nghiệp nhà sư: Ngày 26-6-2017, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh H đã ban hành Quyết định kỷ luật đối với bị cáo B (tên gọi khác: Thích Thanh T) bằng hình thức: Thu hồi quyết định bổ nhiệm trụ trì chùa P và tẩn xuất khỏi Giáo hội phật giáo Việt Nam tỉnh H, tước bỏ tư cách người xuất gia, không còn là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng, hội chúng Tăng Già nói chung đối với tu sỹ Thích Thanh T, thế danh Nguyễn Quốc B thuộc thẩm quyền của Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh H nên không đặt ra giải quyết.
Đối với anh Đinh Bá D có hành vi mua chiếc chuông, anh Vũ Duy T giúp tháo chuông, anh Nguyễn Ngọc Tr nhận số tiền 9.000.000 đồng do B bán chuông, nhưng anh D, anh Tr không biết những tài sản trên do B phạm tội mà có, anh T không biết B bán chuông nên không đặt ra việc xử lý.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Miện đã trả lại chiếc chuông đồng cho chùa P thôn T. Bà Nguyễn Thị N - trưởng thôn và là đại diện theo pháp luật cho nguyên đơn dân sự đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự nên Toà án không xem xét, giải quyết.
Anh Đinh Bá D yêu cầu bị cáo B phải hoàn trả số tiền 9.000.000 đồng đã bỏra mua chiếc chuông. Tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị xét xử, anh D không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền trên và xác định cho bị cáo. Xét đây là sự tự nguyên không yêu cầu giải quyết số tiền trên của anh D, cần chấp nhận.
[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quyđịnh của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc B (tức Thích Thanh T) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 140; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc B (tức Thích Thanh T) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" tại bản án hình sự phúc thẩm số 94/HSPT ngày 24-11-2017 của TAND tỉnh Hưng Yên. Buộc Nguyễn Quốc B (tức Thích Thanh T) phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22-6-2017.
2. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự tự nguyện của anh Đinh Bá D về việc không yêu cầu giải quyết số tiền 9.000.000 đồng.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Quốc B (tức Thích Thanh T) phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người đại diện của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo về những nội dung có liên quan trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.
Bản án 03/2018/HS-ST ngày 03/01/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 03/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về