TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 03/2018/HSPT NGÀY 19/01/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 19/01/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, mở phiên toà xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 196/2017/HSPT ngày 02/11/2017 đối với bị cáo Triệu Phúc Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án số 36/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Triệu Phúc Q, sinh năm 1992; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: xóm H, xã C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 7/12; Con ông Triệu Tiến V và con bà Triệu Thị T; có vợ: Triệu Thị S và có 01 con; Tiền án, tiền sự: không; hiện tại ngoại (có mặt).
+ Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Lý Văn T - sinh năm 1972
Địa chỉ: bản B, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;
Lý Thị V, Lý Thị H1, Lý Thị H2, Lý Thị S (ủy quyền cho anh Lý Văn T).
+ Bị đơn dân sự:
1- Ông Đỗ Đức Đ, sinh năm 1974
Địa chỉ: bản T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;
2- Bà Lê Thị L - sinh năm 1971
Địa chỉ: bản T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tại liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:
Khoảng gần 7 giờ ngày 27/9/2016, bà Liểu Thị L1, sinh năm 1938 (Tên thường gọi: B) ở bản B, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang cầm dao quắm đi bộ từ nhà anh Lý Văn T, sinh năm 1972 ở cùng bản (anh T là con trai bà L1) ra đường quốc lộ 17 thuộc bản B, xã T, huyện Y đi về hướng xã X mục đích để chặt củi. Đến khoảng 7 giờ cùng ngày thì người dân phát hiện bà L1 bị chết, nằm dọc ở rìa đường bên phải theo hướng từ bản M, xã T đi xã X, gần cổng nhà anh Lý Văn T.
Vụ việc được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thu giữ các mẫu vật để trưng cầu giám định. Kết quả khám nghiệm hiện trường hồi 08 giờ ngày 27/9/2016 thể hiện: (Phải - trái tính theo chiều M- X): Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn thuộc km 101 + 750, Quốc lộ 17, thuộc bản B, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang là đoạn đường hai chiều, được ngăn cách hai phần đường xe chạy bằng vạch sơn đứt đoạn. Mặt đường trải nhựa apphan, bề mặt phẳng, nhẵn, ở ngoài khu vực đông dân cư. Mặt đường có bề rộng 5.4m, lề đường hai bên, mỗi bên rộng 1,1m có nhiều cây cỏ dại mọc, sát lề đường bên phải là mương nước (không có nước) rộng 1.5m, sâu 60cm.
Kết quả khám nghiệm tử thi Liểu Thị L1 hồi 9 giờ 10 phút ngày 27/9/2016 thể hiện: Biến dạng toàn bộ vùng đầu mặt, dập nát, rách da, cơ xương vùng đầu mặt. Dập nát toàn bộ xương hộp sọ, xương nền sọ, xương hàm mặt thành nhiều mảnh nhỏ. Tổ chức não dập nát thoát ra bên ngoài thành nhiều mảnh nhỏ. Mặt trước vai trái có vết rách da để lộ tổ chức cơ, mỡ, xương kích thước (4 x 3) cm. Gãy hở đầu trên xương cánh tay trái. Dập nát, rách da lộ tổ chức dưới da, cơ, mỡ, xương, mặt trước trong hõm nách trái kích thước (18 x11) cm. Biến dạng toàn bộ vùng ngực trái. Gãy cung trước, cung bên, cung sau xương sườn từ 1-9 bên trái. Gãy cung bên xương sườn 10-11-12 bên trái. Vùng ngực trái có diện xây sát da dạng mài kích thước (16 x 6) cm. Vùng bụng trái có diện xước, xây sát da dạng mài kích thước (30 x 14) cm. Toàn bộ mặt sau khuỷu tay, cẳng tay trái có diện rách da để lộ cơ, gân, xương kích thước ( 30 x 9) cm. Mặt mu bàn tay và các ngón tay trái có diện rách da mất tổ chức, để lộ cơ, gân, xương kích thước ( 13 x 4) cm. Mặt mu bàn tay phải có diện rách da, sưng nề, bầm tím kích thước ( 12 x 8) cm. Dập nát rách da lộ tổ chức dưới da cơ, gân, xương, mặt sau đùi trái và toàn bộ cẳng chân trái, bàn chân và các ngón chân, kiểm tra thấy gãy hở đầu dưới hai xương cẳng chân trái, gãy hở toàn bộ xương bàn chân và các ngón chân trái. Mặt trước ngoài cổ chân phải có diện rách da, mất tổ chức để lộ cơ, gân, xương kích thước ( 22 x 6) cm. Mặt mu ngón 2-3-4-5 bên chân phải có diện rách da kích thước (7 x 3) cm. Vùng cổ sau và mặt sau vai trái có diện chợt xước da lớp thượng bì kích thước ( 22 x 10) cm. Vùng lưng phải có diện chợt xước da lớp thượng bì kích thước (21 x 6,5) cm. Vùng thắt lưng trái có diện chợt xước da lớp thượng bì kích thước (19 x 13,5) cm. Kiểm tra thấy trật đốt sống cổ C3, C4, C5, C6, C7 và đốt sống ngực D1, D2. Thu giữ chiếc áo thun cộc tay, chiếc quần lửng của tử thi Liểu Thị L1.
Khoảng 12 giờ cùng ngày, tại bản N, xã X, huyện Y, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế phát hiện chiếc máy xúc đào bánh lốp nhãn hiệu DOOSAN 140W màu sơn cam của anh Đỗ Đức Đ, sinh năm 1974 ở bản T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang do Triệu Phúc Q, sinh năm 1992 ở xóm H, xã C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên điều khiển vào sáng ngày 27/9/2016 nghi vấn có liên quan đến vụ tai nạn giao thông làm bà Liểu Thị L1 chết nên đã tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ một số mẫu vật bám dính trên chiếc máy xúc đào bánh lốp để phục vụ công tác giám định. Gồm: Mẫu chất bám dính màu nâu đỏ thu tại cầu trước bánh bên phải, cách mặt trước trục 33 cm, cách mép dưới trục 09 cm, cách mép trên trục 07 cm (Ký hiệu M1); Mẫu chất bám dính màu nâu đỏ thu tại mặt trước trục, cách trục bánh xe bên phải 19 cm (Ký hiệu M2); Mẫu chất bám dính màu nâu đỏ thu tại mặt ngoài bên phải phía trước, cách trục bánh xe 41 cm (Ký hiệu M3); Mẫu chất bám dính màu nâu đỏ thu tại mặt ngoài, bánh ngoài bên phải phía trước cách trục bánh xe 40 cm (Ký hiệu M4); Mẫu chất bám dính màu vàng thu tại mặt dưới bên phải bảo vệ máy, cách trục cao đăng 94 cm (Ký hiệu M5); Mẫu chất bám dính màu nâu đỏ thu tại mặt ngoài bánh trong phía trước bên phải (Ký hiệu M6); Mẫu chất bám dính màu nâu đỏ thu tại mặt ngoài bánh trong phía trước bên phải (Ký hiệu M7); Mẫu chất bám dính màu nâu đỏ thu tại khe giữa hai bánh sau bên phải (Ký hiệu M8). Đồng thời tạm giữ phương tiện để điều tra.
Tại cơ quan điều tra, Triệu Phúc Q khai nhận: Q là người lái thuê máy xúc đào bánh lốp nhãn hiệu DOOSAN140W màu sơn cam cho anh Đỗ Đức Đ. Khoảng gần 7 giờ ngày 27/9/2016, Q điều khiển máy xúc đào của anh Đ từ bản T, xã Đ đi trên Quốc lộ 17 về hướng xã X với mục đích để múc đất làm đường khai thác rừng. Trên đường đi, Q có điều khiển xe máy xúc đào vào Trạm cấp phát xăng dầu L để mua dầu, sau đó Q tiếp tục điều khiển xe máy xúc đào bánh lốp đi về hướng X. Khi đến đoạn đường thuộc bản B, xã T thì Q phát hiện một ô tô tải biển kiểm soát 98C-06324 do anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1979 ở thôn Đ, xã H, huyện Y điểu khiển cùng chiều phía sau. Q đang điều khiển xe máy xúc đào đi ở phần đường bên phải nên đã đánh lái dịch sang bên phải. Lúc này Q xác định vị trí bánh bên trái của máy xúc cách vạch sơn đứt đoạn ở giữa đường khoảng 20-30cm để nhường đường cho xe ô tô tải của anh P vượt lên bên trái theo hướng đi. Sau khi xe ô tô của anh P vượt qua, Q vẫn điều khiển xe máy xúc đào đi thẳng song song ở vị trí bánh bên trái cách vạch sơn đứt đoạn ở giữa đường khoảng 20-30cm thì tiếp tục phát hiện phía sau cùng chiều có chiếc ô tô tải thứ hai là xe ô tô biển kiểm soát 98C-04526 do anh Ngô Văn B, sinh năm 1984 ở thôn Đ, xã H, huyện Y đi sang phần đường bên trái để vượt máy xúc. Khi đó Q tiếp tục điều khiển máy xúc đi thẳng song song với vạch sơn đứt đoạn ở giữa đường để nhường đường cho xe ô tô anh B phía sau vượt. Khi xe ô tô anh B vượt qua thì Q điều khiển xe máy xúc đi thẳng khoảng 5-6m rồi đánh lái điều khiển xe máy xúc đào đi sang bên trái khoảng 20-30cm và đi thẳng đến xã X múc đất làm đường khai thác rừng từ 8 giờ đến 11 giờ cùng ngày thì nghỉ. Sau đó cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thế đến làm việc, Q được chứng kiến việc cơ quan điều tra kiểm tra, thu giữ và niêm phong một số mẫu vật trên xe máy xúc đào do Q điều khiển.
Cơ quan điều tra đã làm việc với người làm chứng là anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1989 ở thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Anh N xác định: Khoảng gần 7 giờ ngày 27/9/2016, anh N điều khiển xe mô tô một mình đi trên Quốc lộ 17 hướng từ bản M đi xã X. Khi đi đến khu vực đoạn đường thuộc bản B, xã T thì phát hiện phía trước có 01 chiếc xe ôtô tải đi cùng chiều. Anh N điều khiển xe mô tô đi sau xe ô tô tải đến đoạn đường hơi cong về bên phải thì quan sát phía trước qua sườn bên phải của ô tô tải thấy có 01 chiếc xe máy xúc đào đi cùng chiều phía trước ô tô và thấy có 01 bà già đang đi bộ ở rìa đường bên phải, phía trước của máy xúc đào. Anh N điều khiển xe mô tô đi qua đoạn đường cong và đi sau ô tô tải nên không quan sát được máy xúc và bà già đó nữa do bị che khuất tầm nhìn bởi chiếc xe ô tô tải. Khi thấy chiếc ô tô tải đi sang phần đường bên trái để vượt chiếc máy xúc đào thì anh N điều khiển xe máy ra khu vực giữa đường và đi phía sau ô tô tải để vượt bên trái xe máy xúc. Sau khi chiếc xe ô tô tải vượt lên trước qua xe máy xúc thì anh N cũng điều khiển xe máy đi sang phần đường bên trái để vượt lên bên trái máy xúc. Khi xe mô tô của anh N đi đến vị trí bánh trước xe mô tô ngang bên trái ben gạt phía sau xe máy xúc đào thì anh N nhìn sang bên phải thấy bà già lúc trước đi bộ ở rìa đường đã bị ngã, phần đùi và tay trái của bà già đó bị dập nát và nằm dọc mép đường bên phải hướng M - X ở vị trí bên phải sát bánh sau bên phải của xe máy xúc đào. Sau đó anh N điều khiển xe máy vượt lên trước xe máy xúc thì thấy xe máy xúc vẫn tiếp tục đi chậm, do hoảng sợ nên anh N không dừng lại mà đi thẳng về hướng xã X để làm việc do nghĩ rằng xe máy xúc đào đó sẽ dừng lại.
Triệu Phúc Q xác định khi điều khiển xe máy xúc đào để nhường đường cho 2 chiếc xe ô tô tải đi cùng chiều phía sau vượt lên thì bị hạn chế tầm nhìn và không có khả năng quan sát khu vực ngay phía trước của bánh trước bên phải và khu vực sườn xe bên phải của xe máy xúc đào do phần gầu máy xúc đang ở vị trí gập, quặp và chân gương chiếu hậu bên phải của máy xúc đào bị hư hỏng. Q cho rằng khi nhường đường cho 2 chiếc xe ô tô tải đi cùng chiều phía sau vượt lên tại đoạn đường đó thì Q không phát hiện thấy có phương tiện giao thông nào khác, không phát hiện có người đi bộ ở dìa đường, không xác định được xe máy xúc đào do Q điều khiển có va chạm với bà Liểu Thị L1 hay không. Khi đó Q điều khiển xe máy xúc đào tốc độ khoảng 15 km đến 17 km/h.
Cơ quan điều tra tiến hành thực nghiệm điều tra cho Triệu Phúc Q ngồi tại vị trí cacbin, điều khiển để phần gầu máy xúc ở vị trí như thời điểm xảy ra tai nạn khi máy xúc đào đang di chuyển. Kết quả: Nếu Q quan sát thẳng về phía trước thì không phát hiện người đóng thế bà L1 ở ngay phía trước của bánh trước bên phải và khu vực sườn bên phải của xe máy xúc đào.
Tiến hành thực nghiệm điều tra theo lời khai của Triệu Phúc Q, anh Nguyễn Văn N và anh Ngô Văn B thì đều xác định vị trí Triệu Phúc Q điều khiển xe máy xúc đào bánh lốp nhường đường cho chiếc xe ô tô tải thứ 2 do anh Ngô Văn B điều khiển vượt ở khu vực phát hiện tử thi Liểu Thị L1. Khi xe máy xúc đào bánh lốp đi ở phần đường bên phải và cách vạch sơn đứt đoạn ở giữa đường 20 cm để nhường đường cho xe ô tô thứ 2 vượt thì phần bánh xe bên phải của máy xúc ở sát mép đường bên phải và quá trình thực nghiệm điều tra xác định có thể va chạm với bà Liểu Thị L1 khi bà Liểu Thị L1 đang đi bộ cùng chiều phía trước dọc mép đường bên phải. Thực nghiệm điều tra theo lời khai nhân chứng là anh Hà Văn T1, sinh năm 1968 ở bản T, xã Đ, huyện Y là người đã vượt xe máy xúc đào trước khi anh T1 rẽ vào nhà anh T thì xác định khoảng thời gian xe máy xúc đào do Triệu Phúc Q điều khiển với tốc độ từ 15 km đến 17 km/h đến vị trí phát hiện tử thi bà Liểu Thị L1 là phù hợp.
Tại bản Kết luận giám định số 1236A/KL-PC54 ngày 08/11/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Nguyên nhân chết của Liểu Thị L1: Đa chấn thương: dập nát tổ chức não, xương hộp sọ, xương nền sọ, xương hàm mặt; trật đốt sống cổ, đốt sống ngực; gãy xương sườn; gãy hở đầu trên xương cách tay trái; gãy hở đầu dưới hai xương cẳng chân trái.
Công văn số 1390/CV-PC54 ngày 13/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giải thích Kết luận giám định số 1236A: Các dấu vết, thương tích trên tử thi Liểu Thị L1 được hình thành khi bà L1 còn phản ứng sống. Các thương tích trên cơ thể Liểu Thị L1 hình thành do tiếp xúc với vật tày, lực tác động mạnh. Không xác định được chiều hướng do cơ thể bị biến dạng, dập nát.
Công văn số 1483/CV-PC54 ngày 27/12/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giải thích Kết luận giám định số 1236A: Không xác định được điểm va chạm đầu tiên giữa xe máy xúc đào với cơ thể bà Liểu Thị L1 do cơ thể bị biến dạng, dập nát. Trong trường hợp bà Liểu Thị L1 đang đi bộ phía trước, xe máy xúc đào đi phía sau, bánh trước bên phải của máy xúc đào va hoặc lao vào người bà L1 có thể tạo được các dấu vết thương tích trên cơ thể bà L1.
Tại Bản kết luận giám định số 4300/C54 (TT3) ngày 20/10/2016 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Dấu vết ghi thu tại vị trí khe giữa hai bánh sau bên phải kí hiệu M8 không phải là máu người. Không đủ cơ sở để xác định các dấu vết ký hiệu M1, M2, M3, M4, M6, M7 có phải là máu người hay không. Dấu vết ghi thu tại vị trí mặt dưới bên phải bảo vệ máy ký hiệu M5 là máu của tử thi Liểu Thị L1.
Ngày 07/11/2016, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế ra Quyết định trưng cầu giám định số 132 để giám định cơ chế hình thành dấu vết.
Tại bản Kết luận giám định số 1040/KL-PC54 ngày 20/11/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Dấu vết bám dính máu và tổ chức cơ thể người ở cầu trước, máy bên phải, lốp bánh trước bên phải của máy xúc nhãn hiệu DOOSAN 140W, màu sơn cam được hình thành do bánh trước bên phải của máy xúc chèn đè qua cơ thể nạn nhân Liểu Thị L1 tạo nên là phù hợp. Vị trí va chạm giữa máy xúc nhãn hiệu DOOSAN 140W, màu sơn cam với cơ thể nạn nhân Liểu Thị L1 trên mặt đường tại vị trí tử thi và dấu vết máu trên mặt đường, thuộc phần đường bên phải theo hướng M - X.
Tại bản Kết luận giám định bổ sung số 1449/KL-PC54 ngày 20/12/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Không đủ điều kiện để xác định tốc độ của máy xúc nhãn hiệu DOOSAN140W khi xảy ra tai nạn.
Ngày 09/01/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế ra Quyết định trưng cầu giám định số 30 để giám định dấu vết cơ học trên chiếc áo thun cộc tay, chiếc quần lửng đã thu giữ của tử thi Liểu Thị L1. Tại bản Kết luận giám định số 99 ngày 17/01/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Không đủ điều kiện để kết luận giám định do dấu vết trên chiếc áo thun cộc tay và chiếc quần lửng không rõ nét, không đủ điều kiện giám định.
Ngày 30/3/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế đã ra Quyết định trưng cầu giám định lại số 06 để trưng cầu Viện Khoa học hình sự Bộ Công an để giám định lại chiều hướng, điểm va chạm giữa xe máy xúc đào bánh lốp và nạn nhân Liểu Thị L1. Tại Bản kết luận giám định pháp y số 1606/C54-TT1 ngày 26/4/2017 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Không xác định được chiều hướng, điểm va chạm giữa xe máy xúc đào bánh lốp và nạn nhân Liểu Thị L1.
Bản kết luận giám định số 1148/KL-PC54 ngày 26/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: "Hình dấu tròn mang tên Trường Cao đẳng nghề L trên "Bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề" số 00025297 mang tên Triệu Phúc Q do trường Cao đẳng nghề L cấp ngày 18/10/2012 (ký hiệu A) là giả, được làm bằng phương pháp in phun màu; Chữ ký mang tên Phùng Văn Đ trên "Bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề" số 00025297 mang tên Triệu Phúc Q do Trường Cao đẳng nghề L cấp ngày 18/10/2012 (ký hiệu A) so với chữ ký của ông Phùng Văn Đ trên các tài liệu mẫu (ký hiệu từ M1 đến M4) là không phải do cùng một người ký ra".
Tại Bản án số 36/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Toà án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Triệu Phúc Q phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt Triệu Phúc Q 03 (ba) năm tù, thời gian thụ hình tính từ ngày bắt giam để thi hành án.
Ngoài ra bản án còn giải quyết về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo, các quyền và nghĩa vụ khác.
Ngày 09 /10/2017, bị cáo Triệu Phúc Q làm đơn kháng cáo với nội dung không nhất trí bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Triệu Phúc Q đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án và bổ sung không đồng ý bồi thường vì buổi sáng bị cáo lái xe máy xúc đi làm chỉ cần đè lên hòn đá nhỏ bị cáo cũng biết, trong khi đó máy xúc nén vào bà L1 bị cáo lại không cảm nhận được gì, bị cáo không đâm vào người bị hại, bị cáo làm thuê cho ông Đ, bà L không có hợp đồng bằng văn bản, chỉ hợp đồng miệng, gọi bị cáo đi làm thì bị cáo xuống làm cho ông Đ, bà L, mỗi tháng trả công 5 triệu đến 6 triệu đồng. Bị cáo không đồng ý bồi thường vì bị cáo không đâm vào người bị hại và bị cáo không phải là chủ sở hữu máy xúc.
Ông Lý Văn T trình bày: Việc kháng cáo là của bị cáo Triệu Phúc Q, cơ quan điều tra đã điều tra đầy đủ kết luận bị cáo Q là người gây tai nạn mà không phải người khác.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang tham gia phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã xác định án sơ thẩm kết án bị cáo phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, theo điểm a khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo để sửa phần trách nhiệm dân sự; đề nghị tuyên bố bị cáo Triệu Phúc Q phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 của bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 03 năm tù; về trách nhiệm dân sự: buộc bà Lê Thị L và ông Đỗ Đức Đ bồi thường cho người bị hại do ông Lý Văn T là người đại diện hợp pháp của người bị hại được ủy quyền số tiền 110.000.000 đồng, được trừ 30 triều đã bồi thường.
Người bào chữa cho bị cáo Triệu Phúc Q đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm vì việc kết tội bị cáo chưa đủ căn cứ. Về tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không làm thủ tục chỉ định Trợ giúp viên pháp lý do bị cáo thuộc diện hộ nghèo; bản án sơ thẩm đánh giá nhận định không phù hợp vì bị cáo không nhận tội nhưng lại nhận định là bị cáo nhận tội. Về nội dung: Tại thời điểm xảy ra tai nạn có 04 phương tiện tham gia giao thông gồm máy xúc đào, xe mô tô và 02 xe ô tô tải nhưng cơ quan điều tra không khám nghiệm xe mô tô, 02 xe ô tô tải là không đầy đủ; không đủ chứng cứ chứng minh xe máy xúc đào bị cáo điều khiển gây tai nạn vì ngoài anh Nguyên ra thì không ai nhìn thấy bà Liểu Thị L1 tham gia giao thông; không có nhân chứng nào nhìn thấy máy xúc đào đâm va vào bà Liểu Thị L1; các kết luận giám định cũng không xác định được điểm, chiều hướng va chạm; nếu bánh trước xe máy xúc đào đâm vào bị hại thì bánh sau cũng đè qua nhưng không có dấu vết gì để lại trên bánh xe, có thể người bị hại do phương tiện khác gây ra.
Bị đơn dân sự, bà Lê Thị L trình bày: bà L thắc mắc bà nộp tiền 30.000.000 do Điều tra viên bảo nộp để lấy máy xúc ra, không phải bà nộp tiền để bồi thường; máy xúc không đâm vào bà Liểu Thị L1 nên bà L không đồng ý bồi thường.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo nộp trong thời hạn pháp luật quy định được xác định là kháng cáo hợp pháp để xem xét vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng:
Về tố tụng: Trong vụ án này, bà Liểu Thị L1 là người bị hại đã chết thì những người ở hàng thừa kế thứ nhất còn sống của bà L1 phải được đưa đầy đủ họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Bản án sơ thẩm không liệt kê đưa tất cả những người đại diện hợp pháp của bà L1 mà chỉ đưa anh Lý Văn T là người đại diện hợp pháp của người bị hại Liểu Thị L1 tham gia tố tụng là không đầy đủ, không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bản án sơ thẩm ghi Người bị hại: “bà Liểu Thị L1, sinh năm 1938 (đã chết) do anh Lý Văn T, sinh năm 1972 là con trai đại diện theo ủy quyền” là không đúng pháp luật vì bà L1 chết thì không thể ủy quyền cho ai. Bản án sơ thẩm phải liệt kê đưa đầy đủ những người đại diện hợp pháp của người bị hại và ghi rõ họ ủy quyền cho anh Lý Văn T mới đúng pháp luật và đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Bản án sơ thẩm xác định tư cách tố tụng của ông Đỗ Đức Đ và bà Lê Thị L là chủ xe có tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng pháp luật vì theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong trường hợp họ chỉ giao cho người khác lái xe mà chưa chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng. Do vậy, ông Đỗ Đức Đ và bà Lê Thị L phải là bị đơn dân sự mới đúng, họ khác người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong đó có quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm cần rút kinh nghiệm trong việc tuyên bồi thường để tránh việc tranh chấp giữa những người đại diện hợp pháp của người bị hại trong việc hưởng tiền bồi thường, tuyên quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng cho đúng để họ thực hiện quyền kháng cáo đúng pháp luật.
Như vậy, việc án sơ thẩm xác định sai tư cách tố tụng của ông Đỗ Đức Đ và bà Lê Thị L, đưa thiếu người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng cần hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung.
Do hủy bản án sơ thẩm, nên chưa xem xét kháng cáo của bi cáo. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 2 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2017/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang để xét xử lại theo thủ tục chung.
2- Về án phí: Bị cáo Triệu Phúc Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 03/2018/HSPT ngày 19/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 03/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về