Bản án 03/2018/HC-ST ngày 24/07/2018 về khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 03/2018/HC-ST NGÀY 24/07/2018 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VÀ HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 24 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý 12/2018/TLST-HC ngày 20 tháng 3 năm 2018 về khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/QĐXXST-HC ngày 27 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Vợ chồng bà Đinh Thị T – sinh năm 1958, ông Huỳnh Văn T– sinh năm 1956. Bà T có mặt; ông T có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ cư trú: Thôn T, xã A, huyện T, tỉnh Phú Yên

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân (UBND) huyện T tỉnh Phú Yên.

- Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Bùi Văn T – Chủ tịch. Vắng mặt không có lý do.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Ngọc V – Phó trưởng phòng Tài nguyên và môi trường UBND huyện T. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân xã A huyện T tỉnh Phú Yên;

- Người đại diện hợp pháp của UBND xã A: Ông Phạm Sơn K – Phó Chủ tịch, theo văn bản ủy quyền ngày 23 tháng 7 năm 2018. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bà Võ Thị P - sinh năm 1936; Địa chỉ cư trú: Thôn T, xã A, huyện T, tỉnh PhúYên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện trình bày: Vợ chồng bà Đinh Thị T, ông Huỳnh Văn T được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK006534, ngày 10/8/2007 tại thửa 63, tờ bản đồ 02, diện tích 560m2 tại thôn T, xã A, huyện T, tỉnh Phú Yên. Do phát hiện có sai sót về thông tin thửa đất nên ngày 30/10/2017, UBND huyện T ban hành quyết định số 881/QĐ-UBND thu hồi giấy chứng nhận số sê ri AK006534 đã cấp cho vợ chồng bà Thanh vì không đúng đối tượng. Trước đó, ngày 21/10/2017, bà T có đơn gửi UBND huyện T yêu cầu tạo điều kiện cho bà sáp nhập 61m2 đất liền kề bà thuê của bà Võ Thị P từ năm 2007. Ngày 30/10/2017, UBND huyện T ban hành công văn số 328/UBND trả lời đơn yêu cầu của bà T là không có cơ sở giải quyết vì đất có nguồn gốc thuê của bà Võ Thị P. Ngày 03/11/2017, UBND xã A có báo cáo số 149/BC- UBND, nội dung thể hiện diện tích đất bà T đề nghị sáp nhập đã được thu hồi, bồi thường thực hiện dự án cầu Long Phú nhưng sau đó đã được chỉnh tuyến không sử dụng, hiện tại đất do UBND xã quản lý. Ngày 20/11/2017, UBND huyện T ban hành công văn số 349/UBND về việc giải quyết theo nội dung xin xác nhận đất UBND xã A quản lý, nhưng thực tế bà T đã sử dụng ổn định trước ngày 01/7/2014, từ đó UBND xã A thống nhất cấp cho bà T theo loại đất bằng trồng cây hàng năm khác vào cùng chung thửa đất ở bà T đang sử dụng.

Ngày 23/11/2017, UBND xã A có báo cáo số 171/BC-UBND, theo Hội đồng tư vấn đất đai xã A xác định thửa đất bà T đề nghị cấp giấy chứng nhận là do lấn chiếm đất quy hoạch công trình công cộng nên không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, ngày 18/01/2018, UBND huyện T tiếp tục ban hành Thông báo số 13/TB-UB thu hồi công văn số 349/UBND vì không đúng quy định pháp luật.

Ngày 28/01/2018, vợ chồng bà Đinh Thị T có đơn khởi kiện vụ án yêu cầu buộc UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đề nghị giao quyền sử dụng và sáp nhập 61m2 đất liền kề bà thuê của bà Võ Thị P vào chung giấy chứng nhận và hủy Thông báo số 13/TB-UB ngày 18/01/2018 vì không đúng pháp luật.

Người bị kiện trình bày: Tại Công văn số 514/UBND ngày 15/5/2018 của UBND huyện T thể hiện qua kiểm tra hồ sơ thu hồi, bồi thường về đất của hộ Võ Thị P khi thực hiện đoạn phía Bắc cầu Long Phú dự án nạo vét, thoát lũ cửa biển Tân Quy năm 2012, trong đó đã thu hồi 91,7m2 đất thửa số 27 là thửa đất bà Võ Thị P cho vợ chồngbà Đinh Thị T thuê. Do vợ chồng bà T khiếu nại không đồng ý bồi thường đất nhà ở, vật kiến trúc trên đất, cản trở không cho thi công thực hiện dự án trên nên ngày 20/11/2014, UBND tỉnh Phú Yên có thông báo số 779/TB-UBND chấp thuận điều chỉnh đoạn cuối đường dẫn cầu Long Phú. Trong quá trình điều chỉnh Trung tâm phát triển quỹ đất thiếu trách nhiệm không kiểm tra điều chỉnh giảm đối với hồ sơ bồi thường của hộ Võ Thị P. Diện tích đất 61m2 trong tổng diện tích 91,7m2 đất thửa số 27 bà T đề nghị cấp quyền sử dụng hiện được vợ chồng bà T xây tường rào lưới B40 thành khuôn viên đất ở đang sử dụng. UBND huyện T không đồng ý yêu cầu khởi kiện của vợ chồng bà Đinh Thị T, giữ nguyên Thông báo số 13/TB-UB ngày 18/01/2018, việccấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ theo hồ sơ địa chính do UBND xã A quản lý.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày: Tại công văn số 59/UBND ngày 28/5/2018, UBND xã A thể hiện không thống nhất cấp giấy chứng nhận 61m2 theo đề nghị của vợ chồng bà Đinh Thị T.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 13/4/2018, bà Võ Thị P thừa nhận năm 2007 có cho vợ chồng bà T thuê một diện tích đất liền kề nhà bà T, thời hạn thuê 8 năm. Năm 2013, nhà nước đã thu hồi đất này để làm đường, bà đã được nhận tiền bồi thường đầy đủ và không có yêu cầu gì, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt vì già yếu và không còn liên quan đến thửa đất đang bị khiếu kiện.

Tại phiên tòa các đương sự giữ nguyên ý kiến yêu cầu đã trình bày. Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm: Về tuân theo pháp luật tố tụng của HĐXX, Thư ký phiên tòa, đương sự được thực hiện đúng quy định pháp luật. Về nội dung vụ án đề nghị Hủy quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 881/QĐ-UBND, thực hiện đúng thủ tục thu hồi và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Đinh Thị T theo quy định tại Điều 106 Luật đất đai 2013; đối với diện tích đất 61m2, kiến nghị UBND huyện T và UBND xã A xem xét theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về việc tham gia tố tụng của đương sự: Các đương sự trong vụ án thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo triệu tập của Tòa án, riêng UBND huyện T vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, 2 lần vắng mặt tại phiên tòa không có lý do thể hiện việc chấp hành pháp luật chưa nghiêm túc, gây bức xúc cho đương sự và ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng. Lãnh đạo UBND huyện T cần phải nghiêm túc chấp hành pháp luật.

 [2] Về thẩm quyền của Tòa án: Ngày 30/10/2017, UBND huyện T ban hành quyết định số 881/QĐ-UBND thu hồi giấy chứng nhận số sê ri AK006534 đã cấp cho vợ chồng bà Đinh Thị T, ông Huỳnh Văn T vì không đúng đối tượng, sai sót trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi thu hồi, UBND huyện T không tiến hành cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà T, liên tục ban hành nhiều công văn, thông báo trì hoãn, kéo dài việc cấp giấy chứng nhận. Nhận thấy việc này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên vợ chồng bà T có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 166 Luật Tố tụng hành chính thì yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện còn trong thời hiệu khởi kiện. Căn cứ Điều 30 và Điều 32 Luật tố tụng hành chính thì Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án.

 [3] Về đối tượng khởi kiện: Hành vi không cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện T; Thông báo số 13/TB-UB ngày 18/01/2018, quyết định số 881/QĐ-UBND ngày 30/10/2017 về thu hồi giấy chứng nhận số sê ri AK006534 cấp cho vợ chồng bà Đinh Thị T, ông Huỳnh Văn T; công văn số 328/UBND ngày 30/10/2017 và công văn số 349/UBND ngày 20/11/2017 của UBND huyện T đã làm hạn chế, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng bà Đinh Thị T nên đây là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 3; Điều 30 Luật tố tụng hành chính. Đối với yêu cầu giao quyền sử dụng và sáp nhập 61m2 đất do UBND xã quản lý là nhu cầu của người khởi kiện nên không thuộc thẩm quyền giải quyết trong vụ án hành chính.

 [4] Về hành vi không cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện T xét thấy: Khoản 2 Điều 105 Luật đất đai 2013 quy định: “UBND cấp huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất … cho hộ gia đình, cá nhân..”; điểm a khoản 2 Điều 61 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai về thời gian thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận như sau: “Đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30 ngày”; Căn cứ các quy định nêu trên thì việc UBND huyện T không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Đinh Thị T là chưa thực hiện đúng quy định pháp luật, yêu cầu khởi kiện của vợ chồng bà Đinh Thị T đối với vấn đề này là có cơ sở nên chấp nhận.

 [5] Đối với quyết định số 881/QĐ-UBND ngày 30/10/2017 của UBND huyện T về thu hồi giấy chứng nhận số sê ri AK006534 là quyết định hành chính có liên quan trong vụ án, xét thấy: Khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai 2013 quy định: “Việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất … quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp,…”; khoản 56 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi bổ sung điểm b, c Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, đã quy định: “cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác găn liền với đất có trách nhiệm kiểm tra, xem xét quyết định thu hồi giấychứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai”; khoản 2 Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016) quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Căn cứ các quy định trên thì việc UBND huyện T ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong khi chưa có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp là không đúng quy định của Luật đất đai. Bên cạnh đó, vợ chồng bà Thanh được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở ngày 28/8/2008 căn cứ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK006534 đã cấp cho vợ chồng bà T nhưng nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi thì đồng thời phải tiến hành thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở để điều chỉnh thông tin cho phù hợp. UBND huyện T không thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là thiếu sót. Vì vậy, cần hủy quyết định số 881/QĐ-UBND ngày 30/10/2017 của UBND huyện T để UBND huyện T thực hiện lại đúng trình tự, thẩm quyền pháp luật quy định.

 [6] Đối với Thông báo số 13/TB-UB ngày 18/01/2018 của UBND huyện T và các quyết định hành chính khác có liên quan trong vụ án gồm công văn số 328/UBNDngày 30/10/2017 của UBND huyện T trả lời đơn yêu cầu của bà T; công văn số 349/UBND ngày 20/11/2017 của UBND huyện T về việc giải quyết theo nội dung đơn xin xác nhập thửa đất có diện tích khoảng 61m2 của bà Đinh Thị T đều được ban hành không đúng quy định pháp luật, đã trì hoãn, kéo dài việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm hạn chế, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng bà Đinh Thị T nên cần hủy các Công văn này trong cùng vụ án.

 [7] Đối với yêu cầu giao diện tích đất 61m2 là đất UBND huyện T đã thu hồi của bà Võ Thị P, hiện tại do UBND xã A quản lý thấy rằng: Trường hợp này Tòa án không có thẩm quyền giải quyết đề nghị giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, qua kiểm tra thực trạng sử dụng đất của vợ chồng bà T nhận thấy hiện tại vợ chồng bà T đã xây dựng tường rào gộp chung diện tích đất bà đề nghị sáp nhập vào diện tích đất ở và sử dụng ổn định trước khi bị thu hồi. Sau khi thu hồi, đất này không còn mục đích phục vụ công trình công cộng; đồng thời, địa hình khu đất dốc, mùa mưa nước đổ vào nhà bà T nên kiến nghị địa phương xem xét giao cho vợ chồng bà T sử dụng diện tích đất nói trên và cấp giấy chứng nhận theo đúng quy định pháp luật.

 [8] Về án phí: Tòa án chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nên người khởi kiện không phải chịu án phí HCST. Trả lại tạm ứng án phí đã nộp cho vợ chồng bà T. Người bị kiện phải chịu 300.000 đồng án phí HCST.

 [9] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: UBND huyện T phải chịu 400.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Vợ chồng bà T đã nộp tạm ứng nên UBND huyện T có trách nhiệm thanh toán lại cho vợ chồng bà T số tiền này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của vợ chồng bà Đinh Thị T, ông Huỳnh Văn T. Tuyên bố hành vi không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện T là trái quy định pháp luật. Buộc Ủy ban nhân dân huyện T phải tiến hành thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Đinh Thị T, ông Huỳnh Văn T theo quy định pháp luật.

Hủy quyết định số 881/QĐ-UBND ngày 30/10/2017 về thu hồi giấy chứng nhận số sê ri AK006534 cấp cho vợ chồng bà Đinh Thị T, ông Huỳnh Văn T; công văn số 328/UBND ngày 30/10/2017; công văn số 349/UBND ngày 20/11/2017 và Thông báo số 13/TB-UB ngày 18/01/2018 của Ủy ban nhân dân huyện T vì trái pháp luật.Căn cứ điểm h khoản 1 Điều 143, Điều 165 Luật tố tụng hành chính. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của người khởi kiện về việc đề nghị giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất 61m2 vì không thuộc thẩm quyền.

Về án phí: Căn cứ Điều 345 và Điều 348 Luật tố tụng hành chính; Điều 6, Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban nhân dân huyện T phải chịu 300.000 đồng án phí HCST. Trả lại cho vợ chồng bà Đinh Thị T 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008486 ngày 16/3/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Căn cứ Điều 358 Luật tố tụng hành chính. UBND huyện T phải chịu 400.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Vợ chồng bà T đã nộp đủ nên Ủy ban nhân dân huyện T phải trả lại cho vợ chồng bà Đinh Thị T, ông Huỳnh Văn T 400.000 đồng.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

601
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HC-ST ngày 24/07/2018 về khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Số hiệu:03/2018/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:24/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về