TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 03/2018/DS-PT NGÀY 24/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 24/8/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2018/TLPT-DS ngày 29/5/2018 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Lào Cai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2018/QĐ-PT ngày 11/7/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị HL.
Địa chỉ: Số nhà 003, đường M, tổ 10, phường B, thành phố C, tỉnh Lào Cai.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Hoàng Văn
T - Luật sư, Văn phòng Luật sư A, đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội.
Địa chỉ: Tầng 1, Tòa CT13B khu đô thị Ciputra, D, quận F, thành phố Hà Nội
2. Bị đơn: Anh Bạch Triệu L.
Địa chỉ: Tổ 4, phường K, thành phố C, tỉnh Lào Cai.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan:
3.1.Chị Nguyễn Thị H.
Địa chỉ: Thôn S, xã I, huyện P, tỉnh Lào Cai.
3.2. Anh Đào Lý G.
Địa chỉ: Số nhà 003, đường M, tổ 10, phường B, thành phố C, tỉnh Lào Cai.
4. Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị HL là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 06/10/2017 và bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị HL trình bày: Ngày 24/3/2017, chị Nguyễn Thị HL có cho anh Bạch Triệu L vay số tiền là 515.000.000đ. Khi vay tiền anh L có viết giấy vay tiền và thỏa thuận đến ngày 03/6/2017 sẽ trả. Đến hẹn, anh L không trả tiền cho chị mặc dù chị L đã đòi nhiều lần nhưng mỗi lần chị đến đòi nợ, anh L đều xin khất nợ. Đến nay, do anh L không trả nợ, nên chị Nguyễn Thị HL khởi kiện anh L ra tòa. Theo chị số tiền trên là tài sản chung của chị và cH chị là anh Đào Lý G và chị cho anh Bạch Triệu L vay là nợ chung của anh Bạch Triệu L và chị Nguyễn Thị H (vợ anh L). Vì vậy chị Nguyễn Thị HL yêu cầu Tòa án buộc anh Bạch Triệu L và chị Nguyễn Thị H phải trả lại cho chị L và cH chị số tiền mà anh L đã vay là 515.000.000đ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ L quan: Anh Đào Lý G xác nhận số tiền chị L cho anh L chị H vay là tài sản chung của anh và chị L, vì vậy anh yêu cầu anh Bạch Triệu L và chị Nguyễn Thị H phải trả lại cho anh và chị L số tiền 515.000.000đ.
Đối với bị đơn anh Bạch Triệu L và người có quyền lợi nghĩa vụ L quan chị Nguyễn Thị H: Trong thời gian Tòa án nhân dân thành phố C thụ lý giải quyết vụ án đều không có mặt tại nơi cư trú, vì vậy Toà án đã thực hiện thủ tục niêm yết theo quyđịnh của pháp luật nhưng anh L và chị H không có mặt tại Tòa án để thực hiện các thủ tục tố tụng, không có ý kiến trong hồ sơ vụ án.
Bản án sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Lào Cai đã quyết định: Căn cứ vào Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hoàng L.
2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị HL phải chịu 24.600.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngày 02/5/2018, nguyên đơn chị Nguyễn Thị HL kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Chị Nguyễn Thị HL giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền lợi cho chi L có ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử Tạm đình chỉ xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan Công an tỉnh Lào Cai để xem xét vì có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Hội đồng xét xử, thư ký tòa án đã thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 295 Bộ luật Tố tụng Dân sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ án, chờ kết quả giải quyết của cơ quan Công an tỉnh Lào Cai theo yêu cầu của đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện các chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị HL: Chị Nguyễn Thị HL khởi kiện bị đơn là anh Bạch Triệu L phải trả số tiền nợ 515.000.000đ (Năm trăm mười năm triệu đồng) theo giấy vay tiền lập ngày 24/3/2017. Đây là tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự theo khoản 3 Điều 26 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Bạch Triệu L có địa chỉ cư trú tại thành phố C, tỉnh Lào Cai. Vì vậy khi chị Nguyễn Thị HL khởi kiện vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố C theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Do chị Nguyễn Thị HL khởi kiện và chỉ cung cấp cho Tòa án bản pho to giấy vay tiền mặt lập ngày 24/3/2017 có chữ ký của anh Bạch Triệu L và chị Nguyễn Thị HL. Chị L có khẳng định việc vay nợ là có thật, chữ ký trong giấy vay nợ là của anh Bạch Triệu L, bản phô tô mà chị nộp tại Tòa án là do chị phô
tô từ bản chính do chị đang quản lý. Tòa án cấp sơ thẩm đã có văn bản yêu cầu chị L cung cấp chứng cứ là bản chính nhưng chị L không giao nộp theo yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng.
Do chị Nguyễn Thị HL chỉ giao nộp bản giấy vay nợ phô tô và chị không cung cấp thêm cho Tòa án bất kỳ chứng cứ nào khác chứng minh cho việc anh Bạch Triệu L vay tiền của chị.
Vì vậy, căn cứ vào các tài liệu mà chị đã nộp, Tòa án nhân dân thành phố C đã xét xử và quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị HL.
[2] Xét kháng cáo của chị Nguyễn Thị HL:
Về thời hạn kháng cáo: Ngày 02/5/2018, chị Nguyễn Thị HL kháng cáo bản án số 06/2018/DS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C. Đơn kháng cáo của chị L được thực hiện trong thời hạn kháng cáo theo quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Về nội dung kháng cáo: Chị Nguyễn Thị HL kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Lào Cai, chị cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện vì không đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là không có căn cứ. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị. HĐXX phúc thẩm xét thấy:
- Ngày 06/10/2017, chị Nguyễn Thị HL khởi kiệu yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố C buộc anh Bạch Triệu L và chị Nguyễn Thị H trả nợ khoản tiền anh L vay ngày 24/3/2017. Khi khởi kiện, chị L chỉ giao nộp Giấy vay tiền mặt viết tay bản phô tô, chị không giao nộp cho Tòa án bản chính, hoặc bản sao (phô tô) có công chứng, chứng thực. Tòa án nhân dân thành phố đã không yêu cầu chị L giao nộp bản sao (phô tô) có công chứng, chứng thực hoặc bản chính để chứng minh cho việc khởi kiện của mình là có căn cứ theo quy định. Mà đã thụ lý vụ án để giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự.
Tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:
i) Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
Khoản 5 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ ......thì họ phải nộp chứng cứ hiện có để chứng minh quyền lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm”. Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự - Nguồn chứng cứ: “Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây: Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, v.v....” Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự - Xác địnhchứng cứ: “Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính, hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp....”.
Trong vụ án này, khi khởi kiện, người khởi kiện có chứng cứ chứng minh là bản chính “Giấy vay tiền mặt” có chữ ký của anh Bạch Triệu L nhưng người khởi kiện đã không nộp cho Tòa án mà không vì lý do khách quan. Lẽ ra Thẩm phán được phân công giải quyết đơn khởi kiện phải yêu cầu người khởi kiện bổ sung đơn khởi kiện, giao nộp chứng cứ (Theo Điều 193 BLTTDS), hết thời hạn yêu cầu nếu người khởi kiện không thực hiện thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện với lý do người khởi kiện không sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của thẩm phán.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án không đúng quy định và xử bác yêu cầu của chị Nguyễn Thị HL với lý do chị L đã không giao nộp cho Tòa án bản chính Giấy vay tiền mặt lập ngày 24/3/2017 giữa anh Bạch Triệu L và chị Nguyễn Thị HL là không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi của chị L.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy kháng cáo của chị Nguyễn Thị HL là có căn cứ nên chấp nhận, cần hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố C và Đình chỉ giải quyết vụ án.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Chị Nguyễn Thị HL không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 308; Điều 311 Bộ luật Tố tụng Dân sự:
Hủy bản án sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Lào Cai. Đình chỉ giải quyết vụ án. Trả lại đơn khởi kiện cho chị Nguyễn Thị HL.
Trả lại cho chị Nguyễn Thị HL toàn bộ tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 12.300.000 đồng theo biên lai số 0004656 ngày 17 tháng 10 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Lào Cai.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Chị Nguyễn Thị HL không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm, được trả lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai số 0005128 ngày 09/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Lào Cai.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 03/2018/DS-PT ngày 24/08/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 03/2018/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lào Cai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về