TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh TG xét xử sơ thẩm cơng khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 123/2020/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2020/QĐXXST- HS, ngày 25/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh TG đối với bị cáo:
Huỳnh Hoài Th, sinh năm: 1996 tại TG.
Nơi cư trú: ấp Long Trị, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG; Nghề nghiệp: không; Giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch : Việt Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Huỳnh Văn N ( đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1978; bị cáo có 01 người em sinh năm 1997, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Mộng C, sinh năm: 1993 và 02 người con sinh năm 2014 và 2015. Tiền sự : không; tiền án: 01 lần ( Ngày 05/02/2020 bị Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh TG xử phạt 01 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm, về tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự theo bản án số 03/2020/HSST, ngày 09/3/2020. Tòa án nhân dân huyện CT ra quyết định thi hành án hình phạt tù cho hưởng án treo đối với Huỳnh Hoài Th).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/8/2020, tạm giam từ ngày 20/8/2020, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại:
1/ Bùi Thị TP, sinh năm: 1980 ( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Vĩnh Phú, Vĩnh Kim, huyện CT, tỉnh TG
2/ Trương Thanh L, sinh năm: 1965( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Long Trị, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Huỳnh Minh Kh, sinh năm: 2000( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Hữu Thuận, xã Hữu Đạo, huyện CT, tỉnh TG
2/ Nguyễn Văn Ph, sinh năm: 1972( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Tân An Thượng, xã Tân Thạch, huyện CT, tỉnh BT
- Người làm chứng:
1/ Lê Minh T, sinh năm: 1993( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Long Thạnh, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG
2/ Nguyễn Thị MH, sinh năm: 1988( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Long Thạnh, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG
3/ Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1968( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Long Trị, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG
4/ Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1993( vắng mặt) Địa chỉ: ấp Long Trị, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG
5/ Nguyễn Thị Như Ng, sinh năm: 1994( vắng mặt) Địa chỉ: ấp 4, xã Quới Sơn, huyện CT, tỉnh BT
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Huỳnh Hoài Th đang chấp hành hình phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, về tội “ Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 03/2020/HS-ST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành – Tiền Giang, nhưng trong quá trình chấp hành án, bị cáo đã phạm tội như sau:
Vụ thứ nhất:
Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 20/7/2020, bị cáo Huỳnh Hoài Th đang ở nhà thì có Huỳnh Minh Khuấn đến chơi. Bị cáo Th rủ Kh đi hái dừa trộm để bán lấy tiền tiêu xài thì được Kh đồng ý. Cả hai chuẩn bị thang, dây và dao lấy tại nhà của bị cáo rồi đi đến vườn dừa của chị Bùi Thị TP, tọa lạc ấp Long Trị, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG. Lợi dụng vườn vừa không ai trông coi, bị cáo leo lên 05 cây dừa rồi chặt 10 buồng dừa đưa xuống cho Kh vác về nhà bị cáo cất giữ. Đến khoản 15 giờ ngày 21/07/2020 Kh thuê xe chở dừa đi bán cho vựa dừa “ Phương Hằng” do chị Nguyễn Thị MH làm chủ, được anh Lê Minh T người làm thuê cho chị H đếm được 78 trái dừa. Do chị H không có nhà nên chưa đưa tiền. Đến 18 giờ cùng ngày chị Ph phát hiện bị mất trộm dừa nên báo Công an xã BL.
Tại kết luận định giá tài sản trong Tố tụng hình sự số 144/KL – HĐĐG ngày 13/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện CT, tỉnh TG kết luân giá trị 78 trái dừa có giá trị tổng cộng là 390.000đồng.
Thu giữ và xử lý vật chứng: Thu tại vựa dừa chị H 78 trái dừa và đã trả lại chị H vì chị H đã mua xong.
Thu của bị cáo: 01 đoạn dây dài 655cm màu trắng, đã cũ; 01 con dao dài 27cm, cán bằng nhựa màu đen dài 11cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 16cm; 02 đoạn cây hình cây thang dài 223cm.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Bùi Thị TP đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt xong, không yêu cầu gì thêm.
Vụ thứ hai:
Khoảng 09 giờ, ngày 10/8/2020, bị cáo Huỳnh Hoài Th điều khiển xe mô tô biển số 63C1- 116.52 chở Huỳnh Minh Kh và Nguyễn Khánh A về nhà bị cáo chơi. Khi đến nhà bà Trương Thanh L tại ấp Long Trị, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG thì thấy nhà đóng cửa bên ngoài, không có người trông coi nên bị cáo nảy sinh ý định lấy trộm tài sản. Khi đến gần đường hẻm rẽ vào nhà bà L, bị cáo đưa xe cho Kh và A chạy về trước, nói dối là đợi bạn gái. Sau đó, bị cáo lén lút đột nhập vào nhà bà L lấy tài sản là 71.000đồng và 01 sợi dây chuyền có mặt hình trái tim bằng kim loại màu vàng. Sau đó, bị cáo điều khiển xe 63C1- 116.52 đến tiệm vàng “ Đặng Khá 1” do ông Nguyễn Văn Ph làm chủ, tọa lạc ấp TA, xã TT, huyện CT – BT để bán sợi dây chuyền với giá 20.750.000đồng, và tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản trong Tố tụng hình sự số 148/KL – HĐĐG ngày 17/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện CT, tỉnh TG kết luận giá trị sợi dây chuyền có trọng lượng là 03 chỉ vàng 24kara, mặt dây chuyền có trọng lượng 01 chỉ vàng 24kara, có giá trị tổng cộng là 21.600.000đồng.
Tổng giá trị chiếm đoạt là 21.671.000đồng. Thu giữ và xử lý vật chứng:
Thu tại hiện trường: 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 24cm; 01 cái kéo dài 23cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đen; Thu giữ tại tiệm vàng “ Đặng Khá 1” 01 dĩa DVD bên trong có chứa dữ liệu điện tử gồm 03 tệp Video ghi nhận hình ảnh bên trong, ngoài của cửa hàng thời gian từ 14 giờ 40 phút đến 15 giờ ngày 10/8/2020, để lưu hồ sơ.
Thu của bị cáo: 33.000đồng tiền Việt Nam; 01 áo sơ mi tay dài tay màu xanh; 01 quần jean màu xanh; 01 áo khoát jean màu xanh; 01 đôi dép kẹp màu đen - vàng
Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị N là mẹ của bị cáo đã bồi thường cho bà Trương Thanh L số tiền 21.200.000đồng xong, bà L có đơn xin bãi nại và không yêu cầu gì khác.
Bản cáo trạng số 128/CT - VKS ngày 26/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CT, tỉnh TG truy tố bị cáo về tội “ Trộm cắp tài sản” theo qui định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện CT vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 1, Điều 173, điểm s, b Khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, khoản 5 Điều 65 Điều 56 xử phạt bị cáo Huỳnh Hoài Th từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Tổng hợp với bản án số 03/2020/HS- ST, ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện CT – TG, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Về dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và tiền bồi thường xong và không yêu cầu gì khác.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại bị cáo 33.000đồng tiền Việt Nam; tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi tay dài màu xanh; 01 quần jean màu xanh;
01 áo khoát jean màu xanh; 01 đôi dép kẹp màu đen – vàng, 01 đoạn dây dài 655cm màu trắng, đã cũ; 01 con dao dài 27cm, cán bằng nhựa màu đen dài 11cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 16cm; 02 đoạn cây hình cây thang dài 223cm; trả lại bà Trương Thanh L 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 24cm; 01 cái kéo dài 23cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đen.
Bị cáo không tranh luận gì thêm, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo về lao động giúp đỡ gia đình và nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CT, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện CT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp lời trình bày của người bị hại, những người tham gia tố tụng khác cùng các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Xét thấy, vào ngày 20/7/2020 và 10/8/2020 tại ấp Long Trị, xã Bàn Long, huyện CT, tỉnh TG. Bị cáo Huỳnh Hoài Th có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của chị Bùi Thị Tố Phương là 78 trái dừa trị giá là 390.000đồng và trộm của bà Trương Thanh L sợi dây chuyền và mặt dây chuyền vàng 24kara, trị giá 21.671.000đồng, giá trị tài sản chiếm đoạt tổng cộng là 22.061.000đồng. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “ Đã bị kết án về tội này……chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Do đó, hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” theo qui định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện CT truy tố bị cáo phạm tội như trên là có cơ sở, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây tác động xấu đến tình hình trật tự xã hội ở địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo là người có đủ nhận thức biết được trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện chiếm đoạt tài sản. Bị cáo đã có một lần phạm tội “ Trộm cắp tài sản” bị xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, đang trong thời gian thử thách nhưng bị cáo vẫn tiếp tục cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài cá nhân, cho thấy bị cáo không có ý thức sửa đổi hành vi sai trái của mình. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo và cần thiết cách ly bị cáo với xã hội một thời gian để nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội và răn đe giáo dục phòng ngừa chung.
[4] Về trách nhiệm tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thực hiện liên tục hành vi trộm cắp tài sản 02 lần nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo đang chấp hành hình phạt tù 01 năm, cho hưởng án treo theo bản án số 03/2020/HS-ST, ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành nhưng bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách, do đó căn cứ Khoản 5 Điều 65 và Điều 56 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 01 năm tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án này, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định pháp luật.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho bị hại xong, bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại Bùi Thị TP và Trương Thanh L đã nhận tiền bồi thường xong và không yêu cầu gì khác.
[5] Về vật chứng vụ án: Các tài sản gồm: Số tiền 33.000đồng tiền Việt Nam;
01 áo sơ mi tay dài tay màu xanh; 01 quần jean màu xanh; 01 áo khoát jean màu xanh; 01 đôi dép kẹp màu đen – vàng. Xét đây là tài sản của bị cáo nhưng tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu nhận lại vì quần áo đã cũ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy, riêng đối với số tiền 33.000đồng cần trả lại cho bị cáo.
Các tài sản gồm: Đối với 01 đoạn dây dài 655cm màu trắng, đã cũ; 01 con dao dài 27cm, cán bằng nhựa màu đen dài 11cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 16cm; 02 đoạn cây hình cây thang dài 223cm đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 24cm; 01 cái kéo dài 23cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đen. Xét đây là tài sản bị cáo lấy trong nhà bà Trương Thanh L là tài sản của bà L nên cần trả lại cho bà L.
Đối với Huỳnh Minh Kh có giúp sức cho Huỳnh Hoài Th trộm cắp 78 trái dừa của chị Bùi Thị TP, do giá trị tài sản chiếm đoạt không đủ định lượng và Kh không có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên không truy cứu trách nhiệm hình sự mà xử phạt vi phạm hành chính đối với Huỳnh Minh Kh là có cơ sở.
Đối với hành vi mua dừa của vựa dừa “ PH” và mua vàng của tiệm vàng “ ĐK” do không biết tài sản trộm cắp nên không có lỗi và không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.
Đối với xe mô tô biển số 63C1 -116.52 do bà Huỳnh Thị N là chủ sở hữu, khi bị cáo lấy xe đi trộm cắp tài sản bà N không biết, nên Cơ quan Điều tra Công an huyện Châu Thành không thu giữ là có cơ sở.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Xét quan điểm luận tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở; Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Hoài Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s,b khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Khoản 5 Điều 65, Điều 56 Bộ luật hình sự.
1/ Xử phạt bị cáo Huỳnh Hoài Th 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.
Tổng hợp với Bản án số 03/2020/HS-ST, ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện CT – TG xử phạt bị cáo 01 năm tù, cho hưởng án treo. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 năm 03 tháng tù.
Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ là ngày 11/8/2020.
2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Hoài Th: Số tiền 33.000đồng tiền Việt Nam;
- Trả lại cho bà Trương Thanh L: 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ tròn, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 24cm; 01 cái kéo dài 23cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đen.
- Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi tay dài tay màu xanh có cúc áo bằng kim loại;
01 quần jean màu xanh; 01 áo khoát jean màu xanh, cúc áo bằng kim loại, tại túi áo bên ngực trái có chữ Christian Dior; 01 đôi dép kẹp màu đen – vàng ( loại dép kẹp);
01 đoạn dây ( dây gân) dài 655cm màu trắng đã cũ; 01 con dao dài 27cm, cán bằng nhựa màu đen dài 11cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 16cm, nơi rộng nhất của lưỡi dao là 4,5cm; 02 đoạn cây hình cây thang dài 223cm.
( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/01/2021)
3/ Về án phí: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự buộc bị cáo phải chịu là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 02/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 02/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về