TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BT, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 116/2020/HSST ngày 20 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2020/QĐXX-ST ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. NGUYỄN TRƯỜNG A, sinh năm 1988;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp TAT, xã TT, huyện CT, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1963 và bà Hồ Thị Hồng H, sinh năm 1969; Có vợ: Hồ Thị Thu T, sinh năm 1991; Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2016;
Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2017/HSST ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang đã tuyên phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Tiền sự: không;
Bị đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang. Bị cáo tạm giam có mặt tại phiên tòa;
2. PHẠM HOÀNG K, sinh năm 1988;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 128, ấp TQN, xã TT, huyện CT, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T (chết) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1969; Có vợ: Nguyễn Thị Cẩm Q (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2019; Tiền án: không;
Tiền sự: Tại Quyết định số 2014/QĐ-XPHC ngày 15/5/2020, Ủy ban Nhan dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 20.000.000 đồng về hành vi “Tàng trữ công 1 cụ hỗ trợ mà không có giấy phép; hoạt động kinh doanh dưới hình thức kinh doanh mà không có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định”;
Bị đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang. Bị cáo tạm giam có mặt tại phiên tòa;
* Bị hại:
1. Bà Nguyễn Thị Ngọc G, sinh năm 1967;
Nơi cư trú: Số 677B, ấp PH, xã PH, thành phố BT, tỉnh Bến Tre (vắng mặt);
2. Bà Nguyễn Diễm M, sinh năm 2000;
Nơi cư trú: Số 59E3, đường số B, Khu phố MT, Phường B, thành phố BT, tỉnh Bến Tre (vắng mặt);
* Bị hại có liên quan:
Ông Phan Văn C, sinh năm 1978;
Nơi cư trú: ấp 2, xã TH, huyện CB, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu các trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tò nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ ngày 17/5/2020 đến ngày 19/5/2020, trên địa bàn thành phố BT, bị cáo Nguyễn Trường A đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản của người khác; còn bị cáo Phạm Hoàng K đã có hành vi tiêu thụ tài sản do bị cáo An trộm cắp mà có, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 11 giờ ngày 17/5/2020, bị cáo Phạm Hoàng K điều khiển xe môtô biển số 71B3-290.86 chở bị cáo Nguyễn Trường A từ huyện Châu Thành đến thành phố BT để mua phụ tùng xe. Khi đi ngang tiệm Spa Huyền Vy ở ấp Mỹ An C, xã Mỹ Thạnh An, thành phố BT thì bị cáo An nhìn thấy xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại Vision, biển số 71B3-313.51 của bà Nguyễn Diễm M dựng trước tiệm và không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm. Để thực hiện ý định, bị cáo A kêu bị cáo K quay xe chạy trở lại nhưng không nói cho K biết ý định của A để làm gì nên K chở A quay lại và dừng xe gần tiệm Spa Huyền Vy đợi. A xuống xe đi bộ đến chỗ xe môtô biển số 71B3-313.51 xem xét, rồi đi trở ra đến tiệm bán đồ sắt gần đó mua một “ống điếu”, sau đó quay trở lại lấy mũi sắt của A mang theo gắn vào “ống điếu” bẻ khóa xe khởi động máy lấy xe chạy ra ngoài. Lúc này, K biết là A đã lấy trộm được xe trong tiệm Spa Huyền Vy nên điều khiển xe môtô biển số 71B3- 290.86 chạy theo sau A về hướng huyện Châu Thành. Trên đường đi, K hỏi A xe ở đâu có thì A trả lời xe mới lấy và kêu K tìm chỗ bán chiếc xe vừa lấy trộm thì K đồng ý và K điện thoại liên lạc với một thanh niên tên N (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang để thỏa thuận giá, N đồng ý mua xe nên cả hai chạy xe sang Tiền Giang bán cho N được 7.000.000 đồng; A chia cho K 3.500.000 đồng. Sau đó, chiếc xe này được anh Phạm Văn C mua lại của một người thanh niên tên D (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) với giá 18.000.000 đồng. Khi anh C mua xe thì chiếc xe này được gắn biển số 59D2-465.49 và có giấy đăng ký xe mang tên Trần Ngọc M. Sau đó, chiếc xe này được Công an xã Tân Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang tạm giữ và chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố BT xử lý theo thẩm quyền. Vật chứng thu giữ: 01 xe môtô hai bánh, nhãn hiệu Honda, số loại Vision, màu sơn đỏ, số máy JF66E0296519, số khung 5810GY296047, gắn biển số 59D2-465.49; 01 giấy chứng nhận đăng ký môtô, xe máy số 084644, tên chủ xe Trần Ngọc M, biển số đăng ký 59D2-46549.
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 588/KL-HĐĐG ngày 03/7/2020 của Hội đồng định giá thành phố BT kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại VISION, màu đỏ, số máy JF66E0296519, số khung 5810GY296047, trị giá ngày 17/5/2020 là 23.100.000 đồng;
Theo Kết luận giám định số 254/2020/GĐTL ngày 19/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Phôi Chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 084644 (tên chủ xe Trần Ngọc M; biển số đăng ký 59D2-465.49; ngày cấp 27 tháng 10 năm 2017) là phôi giả. Được làm giả bằng phương pháp in phun màu;
Vụ thứ hai: Vào khoảng 09 giờ ngày 19/5/2020, bị cáo Nguyễn Trường A đi bằng xe ôm từ xã MTA, thành phố BT về huyện CT, tỉnh Bến Tre. Khi đến khu vực Trường tiểu học xã Phú Hưng, A dừng lại mua nước mía thì thấy bà Nguyễn Thị Ngọc G điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại Lead, biển số 50Y1-185.79 chạy vào đường hẻm bêtông nên đi bộ theo sau để tìm cơ hội lấy trộm. Khi đến nhà số 677B, ấp Phú Hữu, xã Phú Hưng, thành phố BT, thấy bà G dựng xe ngoài sân và vẫn cắm chìa khóa trong ổ khóa xe rồi đi vào trong nhà, bị cáo A liền đi vào lấy trộm chiếc xe chạy đi. Trên đường đi, A mở cốp xe lục tìm tài sản thì thấy có 170.000 đồng, giấy tờ và một số vật dụng của bà G; A chỉ lấy tiền còn giấy tờ và các vật dụng thì ném bỏ. Sau đó, A nhờ bị cáo Phạm Hoàng K liên hệ với N để bán xe thì N đồng ý, nên A chạy xe qua Tiền Giang bán cho N được 5.000.000 đồng. Hiện xe không thu hồi được.
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 660/KL-HĐĐG ngày 04/8/2020 của Hội đồng định giá thành phố BT kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Lead, màu đỏ đen, biển số 50Y1-185.79, số khung: RLHJF7903HY029374, số máy: JF79E0100553, trị giá ngày 19/5/2020 là 26.600.000 đồng;
Tại bản Cáo trạng số 105/CT-VKSTPBT ngày 11 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã truy tố các bị cáo Nguyễn Trường A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và Phạm Hoàng K về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố BT vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Xét về nhân thân, các bị cáo có nhân thân xấu; bị cáo A có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản; Bị cáo K có 01 tiền sự, năm 2010 và năm 2012 bị kết án về tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản; Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo A thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nhiều lần; bị cáo K mặc dù không hứa hẹn trước nhưng tiêu thụ tài sản biết rõ là do bị cáo A trộm cắp mà có, nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.
Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự và bị áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Tái phạm” theo quy định tại các điểm g, h khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Kiếm được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo đang nuôi con nhỏ nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trường A phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 56 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Trường A từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; Bị cáo Phạm Hoàng K phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1, Điều 323 Bộ luật Hình sự; Hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56; Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Hoàng K từ 09 tháng đến 01 năm tù. Tổng hợp hình phạt bản án số 115/2020/HSST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đối với các bị cáo Nguyễn Trường A, Phạm Hoàng K về tội cướp giật tài sản, buộc các bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng, do các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 giấy chứng nhận đăng ký môtô, xe máy số 084644 và 01 biển số 59D2-465.49.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, Điều 586, Điều 587, Điều 589 và Điều 357 Bộ luật Dân sự: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố BT đã trao trả cho bị hại Nguyễn Diễm M xe môtô biển số 71B3-313.51, bị hại My không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bị hại Nguyễn Thị Ngọc G chỉ yêu cầu bị cáo Nguyễn Trường A bồi thường số tiền 16.600.000 đồng, các khoản thiệt hại khác bị hại G không yêu cầu bị cáo bồi thường nên ghi nhận để buộc bị cáo thực hiện.
Các bị cáo Nguyễn Trường A, Phạm Hoàng K đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu tron hồ sơ vụ án đã được trình tại phiên tò Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố BT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, tuy nhiên họ đã có lời khai rõ ràng trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử, cũng không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết quả thực nghiệm điều tra và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định:
Xuất phát từ động cơ tư lợi bất chính, trong khoảng thời gian từ ngày 17/5/2020 đến ngày 19/5/2020, trên địa bàn thành phố BT, bị cáo Nguyễn Trường A đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, chiếm đoạt của bà Nguyễn Diễm M 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại VISION, biển số 71B3-313.51 trị giá 23.100.000 đồng; chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Ngọc G 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại Lead, biển số 50Y1-185.79 trị giá 26.600.000 đồng và 170.000 đồng. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo An chiếm đoạt của các bị hại là 49.870.000 đồng. Đối với Phạm Hoàng K mặc dù biết rõ xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại VISION, biển số 71B3-313.51 do bị cáo A trộm cắp mà có nhưng đã giúp bị cáo A tiêu thụ chiếc xe này và được bị cáo A cho 3.500.000 đồng.
[4] Các bị cáo Nguyễn Trường A và Phạm Hoàng K là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được rằng hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm một cách trái pháp luật đều phải bị xử lý. Nhưng vì động cơ tư lợi, bị cáo An đã 02 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác trong khi bị cáo chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, điều này cho thấy bị cáo là người khó cải tạo, giáo dục; Đối với bị cáo K, mặc dù không hứa hẹn trước với bị cáo A nhưng biết rõ xe mô tô do bị cáo A trộm cắp mà có, nhưng vẫn giúp A tìm người bán xe mô tô mà A chiếm đoạt của bị hại M, bị cáo đã phạm vào tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Vì vậy, Bản cáo trạng số 105/CT-VKSTPBT ngày 11/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Nguyễn Trường A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và bị cáo Phạm Hoàng K về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng luật định.
[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy:
Các bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo A có 01 tiền án về trộm cắp tài sản, bị cáo chưa được xóa án tích tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, đồng thời bị cáo phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại các điểm g, h khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo K không có tình tiết tăng nặng.
Các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo có con còn nhỏ; gia đình bị cáo K có công với đất nước nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy rằng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã gây khó khăn trong cuộc sống và kinh tế của người bị hại đồng thời còn gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân trong việc bảo quản tài sản của mình, vì vậy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức cải tạo, giáo dục các bị cáo cũng như để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
[6] Tổng hợp hình phạt với bản án số 115/2020/HSST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, đã xử phạt bị cáo Phạm Hoàng K 03 năm 06 tháng tù và xử phạt bị cáo Nguyễn Trường A 03 năm 09 tháng tù cùng về tội “Cướp giật tài sản”, buộc các bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án theo quy định Điều 56 Bộ luật Hình sự.
[7] Lời phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh đối với các bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với các bị cáo phù hợp với quy định pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn không cần thiết áp dụng thêm hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố BT đã trao trả cho bị hại Nguyễn Diễm M xe môtô biển số 71B3-313.51, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Bị hại Nguyễn Thị Ngọc G yêu cầu bị cáo Nguyễn Trường A bồi thường thiệt hại tài sản chiếm đoạt là 16.600.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường nên ghi nhận để buộc bị cáo thực hiện.
[10] Về xử lý vật chứng: Ghi nhận Cơ quan điều tra đã giao trả cho bị hại Nguyễn Diễm My xe môtô biển số 71B3-313.51;
Đối với vật chứng thu giữ là 01 giấy chứng nhận đăng ký môtô, xe máy số 084644, tên chủ xe Trần Ngọc M theo kết luận giám định số 254/2020/GĐTL ngày 19/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bến Tre kết luận: Phôi Chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 084644, tên chủ xe Trần Ngọc M, biển số đăng ký 59D2-465.49, ngày cấp 27 tháng 10 năm 2017 là phôi giả, được làm giả bằng phương pháp in phun màu nên tịch thu tiêu hủy.
[11] Đối với việc bị hại Nguyễn Thị Ngọc G khai còn mất 10.000.000 đồng cất trong cốp xe môtô biển số 50Y1-185.79 nhưng bị cáo A không thừa nhận đã lấy. Do chỉ có duy nhất lời khai của bị hại, không có chứng cứ nào khác để chứng minh bị cáo A lấy số tiền này nên không đủ căn cứ để truy cứu thêm trách nhiệm hình sự bị cáo A đối với số tiền này là có căn cứ.
Đối với ông Phạm Văn C khi mua xe môtô biển số 71B3-313.51 không biết xe do các đối tượng phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm là phù hợp.
Đối với đối tượng tên N và D do không rõ họ tên địa chỉ, Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau.
Đối với hành vi của bị cáo K giúp bị cáo A bán xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại Lead, biển số 50Y1-185.79 vào ngày 19/5/2020, do bị cáo K không biết xe do bị cáo A phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo K trong lần bán xe này là phù hợp.
[12] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Trường A và Phạm Hoàng K phải nộp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;
Vì các ẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trường A phạm tội “Trộm cắp tài sản” và Phạm Hoàng K phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
1.1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h, g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường A: 02(hai) năm tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp hình phạt với Bản án số 115/2020/HSST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã xử phạt bị cáo Nguyễn Trường A 03(ba) năm 09(chín) tháng tù về tội cướp giật tài sản, buộc bị cáo Nguyễn Trường A phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 05 (năm) năm 09 (chín) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/7/2020.
1.2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 323; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng K: 09(chín) tháng tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp hình phạt với Bản án số 115/2020/HSST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã xử phạt bị cáo Phạm Hoàng K 03(ba) năm 06(sáu) tháng tù về tội cướp giật tài sản, buộc bị cáo Phạm Hoàng K phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 04(bốn) năm 03(ba) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/7/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Các Điều 357, 584, 585, 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự:
Buộc bị cáo Nguyễn Trường A có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Ngọc G số tiền 16.600.000 (mười sáu triệu sáu trăm ngàn) đồng;
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Tịch thu tiêu hủy: 01(một) giấy chứng nhận đăng ký môtô, xe máy số 084644 và 01(một) biển số 59D2-465.49.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/12/2020 hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T đang quản ý).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 và Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội:
Mỗi bị cáo Nguyễn Trường A và Phạm Hoàng K phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000(hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo Nguyễn Trường A phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 830.000(tám trăm ba mươi ngàn) đồng.
Trong thời hạn 15(mười lăm ngày) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, các bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Đối với bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 02/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 02/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về