TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HOÁ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Hoá, T Thái nguyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 175/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020 về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 1 năm 2021 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Tr, sinh ngày: 17/10/1990. Nơi ĐKHKTT: Xóm NL, xã PC, huyện Đ, T Thái Nguyên. Nơi ở hiện nay: Xóm B, xã BN, huyện Đ, T Thái Nguyên.
(Có mặt tại phiên tòa).
2. Bị đơn: Anh Bành Văn T, sinh ngày 29/02/ 1988.
Địa chỉ: Xóm NL, xã PC, huyện Đ, T Thái Nguyên.
Hiện đang chấp hành án phát tù tại phân trại số 2, trại giam Quyết Tiến –C10- Bộ Công an.
(Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình tố tụng giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay nguyên đơn chị Phạm Thị Tr trình bày:
Chị và anh Bành Văn T kết hôn với nhau vào ngày 15/12/2011, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PC, huyện Đ, T Thái Nguyên. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn chị về nhà anh T làm dâu và chung sống cùng gia đình nhà chồng.
Cuộc sống vợ chồng có thời gian dài hòa thuận, hạnh phúc nhưng từ năm 2016, vợ chồng bắt đầu sảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T ham chơi, cờ bạc không quan tâm đến gia đình, vợ con. Đến đầu năm 2019 chị phát hiện anh T sử dụng ma túy, chị và gia đình đã khuyên bảo, cho anh nhiều cơ hội để sửa đổi, cai nghiện nhưng anh T không thực hiện được mà ngày càng lấn sâu hơn, dẫn đến vợ chồng thường xuyên to tiếng cãi cọ và xô sát nhau.. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ tại xã BN, huyện Đ ở, vợ chồng chính thức sống ly thân từ tháng 5 năm 2019. Đến tháng 6 năm 2020 anh T vi phạm pháp luật, bị Công an huyện Đ bắt, bị kết án 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản hiện đang chấp hành án tại Trại giam Quyết Tiến. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay chị Tr xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị cương quyết xin được ly hôn anh T - Về con chung: Chị Tr xác định có một con chung là Bành Tùng Anh, sinh ngày 04/8/2012. Hiện cháu Bành Tùng Anh đang ở với chị tại xã BN, huyện Đ. Khi ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Vì chị Tr hiện đang làm công nhân tại Công ty TNHH Hansol Electronics Việt Nam khu công nghiệp Yên Bình, Thị xã Phổ Yên, T Thái Nguyên, có thu nhập khoảng 6.000.000 đồng/ tháng.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Tr xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh T vắng mặt tại phiên tòa do anh đang chấp hành án tại trại giam Quyết Tiến, Bộ Công an. Nhưng tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, anh T trình bày. Anh và chị Tr kết hôn với nhau vào ngày 15/12/2011, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PC, huyện Đ, T Thái Nguyên. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 anh bắt đầu sử dụng ma túy dẫn đến anh không quan tâm, chăm sóc nhiều đến vợ con và gia đình. Đến khoảng tháng 9 năm 2019 chị Tr bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xã BN sinh sống, anh chị sống ly thân từ đó đến nay. Tháng 6 năm 2020 anh phạm tôi trộm cắp tài sản, bị kết án 12 tháng tù. Hiện anh đang chấp hành án tại trại giam Quyết Tiến, Bộ Công an. Từ khi anh đi chấp hành án, chị Tr không đến thăm anh lần nào. Anh xác định tình cảm vợ chồng không còn chị Tr xin ly hôn anh đồng ý.
- Về con chung: Anh T xác định có một con chung là Bành Tùng Anh, sinh ngày 04/8/2012. Hiện nay cháu Tùng Anh đang ở với chị Tr. Khi ly hôn anh đồng ý để chị Tr được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Chị Tr không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con, anh đồng ý.
- Về tài sản chung, nợ chung: Anh T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa ngày hôm nay, chị Tr cương quyết xin ly hôn. Yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ xác định: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; bị đơn hiện đang chấp hành án tại Trại giam Quyết Tiến, Bộ Công an không có mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục đúng tố tụng, đúng pháp luật vì vậy Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung khởi kiện của chị Phạm Thị Tr, cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Tr và anh Bành Văn T; Về con chung: Giao cháu Bành Tùng Anh, sinh ngày 04/8/2012 cho chị Phạm Thị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi, lao động tự túc được. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Bành Văn T; Về tài sản chung, nợ chung: Chị Tr và anh T không có tài sản chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo bản án.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định của pháp luật, Tòa án không tiến hành hòa giải để vợ chồng anh, chị về đoàn tụ được do anh T đang chấp hành án tại Trại giam Quyết Tiến. Vì vậy vụ án được đưa ra xét xử công khai ngày hôm nay.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án nhận định:
- Về tố tụng: Đây là vụ án về ly hôn và tranh chấp về nuôi con. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Đ, T Thái Nguyên. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Định Hoá, T Thái Nguyên theo quy định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn hiện đang chấp hành án tại trại giam Quyết Tiến, Bộ Công an, đã được Tòa án tổng đạt các văn bản tố tụng và bị đơn đã có đơn xin xét xử vằng mặt, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp, đúng quy định.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ bằng biện pháp xác minh,lấy lời khai của đương sự. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay có sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân theo khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Tr và anh Bành Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây là hôn nhân hợp pháp.
- Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Tr nhận thấy: Từ năm 2016 trong ăn ở sinh hoạt hàng ngày giữa chị Tr, anh T đã luôn sảy ra mâu thuẫn, cãi cọ nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Nguyên nhân, chị Tr xác định do anh T ham chơi, cờ bạc và sử dụng ma túy không quan tâm đến gia đình, vợ con. Anh T xác định những lời khai của chị Tr là đúng, do anh sử dụng ma túy nên ít quan tâm, chăm sóc gia đình, vợ con. Hiện anh T đang chấp hành án tại trại giam Quyết Tiến, Bộ Công an, vợ chồng anh, chị ly thân từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Từ khi anh T đi chấp hành án, chị Tr không đến thăm anh lần nào. Nay anh, chị không còn quan tâm đến nhau nữa dẫn đến việc chị Tr xin ly hôn. Điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, yêu cầu xin ky hôn của chị Tr là có căn cứ, đúng thực tế cần được chấp nhận.
- Xét yêu cầu xin nuôi con của chị Tr. Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị Tr, anh T có một con chung là cháu Bành Tùng Anh, sinh ngày 04/8/2012, hiện nay cháu đang ở với chị Tr.
Quá trình giải quyết tại Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Tr xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Chị Phạm Thị Tr hiện đang làm công nhân tại công ty Hansol có trụ sở tại khu công nghiệp Yên Bình, thị xã Phổ Yên, đang ở cùng nhà bố mẹ đẻ tại xã BN, huyện Đ ổn định. Ngoài ra, con anh chị còn nhỏ cần có sự chăm sóc, giáo dục của người phụ nữ, đặc biệt là của người mẹ. Do vậy, cần giao con chung của anh, chị cho chị Phạm Thị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị Tr và anh Bành Văn T đều xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, không đặt ra xem xét, giải quyết.
- Về án phí: Chị Phạm Thị Tr phải chịu dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, 147, Khoản 2 Điều 227, 228, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 9, 51, 53, 56, 59, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Tr được ly hôn anh Bành Văn T
2. Về con chung: Giao cháu Bành Tùng Anh, sinh ngày 04/8/2012 cho chị Phạm Thị Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con trưởng thành (đủ 18 tuổi), lao động tự túc được. Anh Bành Văn T có quyền, thăm nom con mà không ai được cản trở.
Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh T do chị Tr tự nguyện không yêu cầu.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị Tr và anh Bành Văn T đều xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Tr phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005210 ngày 14/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ. Chị Tr đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị đơn tại phiên tòa, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 02/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về