Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản, công nợ khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHO QUAN - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN, CÔNG NỢ KHI LY HÔN

Ngày 22/01/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện Nho Quan mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 245/2020/TLST – HN&GĐ ngµy 12 th¸ng 10 n¨m 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản, công nợ khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/12/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1985.

Trú tại: Thôn S, xã L, huyện Q, tỉnh Ninh Bình (có mặt).

Bị đơn: Anh Đinh Văn Ch, sinh năm 1983.

Trú tại: Bản S, xã Ph, huyện Q, tỉnh Ninh Bình (có mặt).

Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Vũ Thị H1, sinh năm 1955 (có mặt).

Anh Nguyễn Duy Th, sinh năm 1987 (vắng mặt). Đều trú tại: thôn S, xã L, huyện Q, tỉnh Ninh Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 09/10/2020 và các lời khai cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Đinh Văn Ch tháng 12 năm 2012 có đăng ký lại tại UBND xã Kỳ Phú huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống tại nhà bố mẹ đẻ anh Chiểu tại bản S, xã Ph; khoảng hơn 01 năm sau vợ chồng chị làm nhà trên đất canh tác của bố mẹ anh Ch. Quá trình chung sống vợ chồng chị sống hạnh phúc được khoảng 02 năm, thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do vợ chồng chị không hợp nhau về mọi lĩnh vực trong cuộc sống, ngoài ra còn do anh Ch rượu chè, thường xuyên chửi, đánh đập chị H, hai bên gia đình hòa giải nhưng nhiều lần nhưng không có kết quả. Đến tháng 8 năm 2020 vợ chồng chị lại tiếp tục va trạm nên chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn S, xã L ở từ đó chị sống ly thân với anh Ch, chị không quan tâm gì đến anh Ch nữa. Chị H xác định tình cảm vợ chồng chị không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị ly hôn với anh Đinh Văn Ch.

Chị Nguyễn Thị H và anh Đinh Văn Ch có 02 con chung là: Đinh Nguyễn Th, sinh ngày 17/6/2013 và Đinh Tiến D, sinh ngày 28/01/2018. Cả 02 con chung hiện nay đang ở với anh Ch. Chị H đề nghị khi ly hôn chị xin được nuôi 02 con chung và anh Ch phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng là 1.000.000đ/02 con chung.

Khi thụ lý vụ án, chị Nguyễn Thị H có đề nghị chia tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng đến ngày 09/11/2020 và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị H rút yêu cầu Tòa giải quyết phân chia tài sản chung, công nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Đinh Văn Ch trình bày:

Anh Đinh Văn Ch xác định quan hệ hôn nhân giữa anh và chị Nguyễn Thị H đúng như chị H trình bày. Sau khi cưới vợ chồng anh chị sống hạnh phúc với nhau được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, mâu thuẫn như chị H trình bầy, vợ chồng anh chị ly thân là từ tháng 8 năm 2020 đến nay. Chị H khởi kiện xin ly hôn, anh Ch đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng anh đoàn tụ cùng nhau xây dựng cuộc sống và nuôi dạy con cái.

Anh Đinh Văn Ch và chị H có 02 con như chị H trình bầy, nếu giải quyết ly hôn anh Ch xin được nuôi cả 02 con chung và anh yêu cầu chị H phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 2.000.000đ/02 con chung.

Anh Đinh Văn Ch và chị H có các tài sản chung gồm: 01 Nhà cấp bốn xây gạch bi lợp ngói đỏ xây dựng năm 2014 nằm trên diện tích đất canh tác của bố, mẹ anh Ch; 01 Nhà tắm bái bằng, xây dựng năm 2016; 01 Con bò mẹ, 01 con bò con anh Ch đã bán được 19.000.000đ, số tiền này anh đã chi phí tiền học cho con và tiền ăn uống và tiền thuốc cho con khi con ốm đến nay đã hết. Anh Ch không đề nghị tòa giải quyết chia tài sản chung về công nợ chung của vợ chồng anh Ch và chị H không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Vũ Thị H1 trình bày: Vợ chồng chị Nguyễn Thị H, anh Đinh Văn Ch khó khăn nên thường xuyên vay tiền bà H1, năm 2019 anh Ch bị tai nạn vợ chồng anh Ch vẫn còn nợ bà số tền 2.000.000đồng và chị H vay thêm 4.000.000đồng để đưa anh Ch đi viện, vì mẹ con cho nhau vay nên không có giấy tờ biên nhận, không có người làm chứng. Anh Ch không thừa nhận công nợ này nên bà Hợi không yêu cầu tòa giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Duy Th trình bày: Năm 2019 anh Th đi làm ăn trong miền nam thì nghe tin anh Ch bị tai nạn nên anh Th đã gửi 5.000.000đồng về qua tài khoản của bà H1 sau đó bà H1 rút tiền đưa cho chị H. Vì em trai cho chị gái vay tiền nên không có giấy tờ biên nhận, không có người làm chứng. Anh Ch không thừa nhận công nợ này nên anh Th không yêu cầu tòa giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng đầy đủ các bước tố tụng và hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 5, 28, 147; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H, anh Đinh Văn Ch.

Việc nuôi con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng cháu Đinh Tiến D, sinh ngày 28/01/2018; anh Đinh Văn Ch trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng cháu Đinh Nguyễn Th, sinh ngày 17/6/2013 đến tuổi trưởng thành và tự lập được cuộc sống.

Chị H, anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Chị H, anh Ch có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về phần chia tài sản chung và công nợ chung.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp áp phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật. Trả lại cho chị Hương tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung và công nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H, khởi kiện ly hôn và giải quyết tranh chấp việc nuôi con chung với anh Đinh Văn Ch cư trú tại Bản S, xã Ph, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện Nho Quan thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị H theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Th đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa xét xử vắng mặt anh Th.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, anh Đinh Văn Ch tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kỳ Phú, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, đây là hôn nhân hợp pháp. Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy: Sau khi kết hôn, vợ chồng chị H, anh Ch sống hạnh phúc được khoảng 02 năm, thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do vợ chồng anh chị tính tình không hợp nhau và do anh Ch uống rượu đánh chị H, mâu thuẫn giữa hai anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thành. Tháng 8 năm 2020 do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn s, xã L ở, sống ly thân và không quan tâm gì đến anh Ch. Điều đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H, anh Ch đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị H yêu cầu ly hôn với anh Ch là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về việc nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị H, anh Đinh Văn Ch có hai con chung là cháu Đinh Nguyễn Th, sinh ngày 17/6/2013 và Đinh Tiến D, sinh ngày 28/01/2018. Chị Nguyễn Thị H, anh Đinh Văn Ch đều đề nghị khi ly hôn anh chị xin được nuôi cả hai con chung. Xét điều kiện anh Ch, chị H đều có khả năng nuôi con, nguyện vong của cháu Đinh Nguyễn Th xin được ở với bố nên giao cháu Đinh Nguyễn Th cho anh Đinh Văn Ch trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng cháu Đinh Tiến D. Chị H, anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con, anh Ch, chị H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị H rút yêu cầu chia tài sản chung và công nợ chung; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Vũ Thị H1, anh Nguyễn Duy Th không yêu cầu độc lập giải quyết công nợ. Anh Đinh Văn Ch không phản tố về việc chia tài sản chung. Xét việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của chị H là tự nguyên. Hội đồng xét xử đình yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về chia tài sản chung và công nợ chung.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật. Trả lại cho chị H tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm về chia tài sản, công nợ chung.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các điều 5, 28, 147; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

2. Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H, anh Đinh Văn Ch.

3. Việc nuôi con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng cháu Đinh Tiến D, sinh ngày 28/01/2018; anh Đinh Văn Ch trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Đinh Nguyễn Th, sinh ngày 17/6/2013 cho đến tuổi trưởng thành và tự lập được cuộc sống. Chị H, anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị H, anh Ch có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn.

4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về phần chia tài sản chung và công nợ chung.

5. Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn), được đối trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí chị Hương đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0000654 ngày 12/10/2020. Trả lại cho chị Hương 225.000đồng tiền tạm ứng án phí chia công nợ chung, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0000653 ngày 12/10/2020 và 2.500.000đồng tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung và theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0000656 ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nho Quan.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Nguyễn Thị H, anh Đinh Văn Ch, bà Vũ Thị H1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Duy Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản, công nợ khi ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về