Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L - TỈNH Y

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 206/2020/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 10 năm 2020 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2020/QĐXX-ST ngày 04 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Nh 38 tuổi Địa chỉ: Thôn Sơn Hạ- xã M- huyện L- tỉnh Y, có mặt.

Bị đơn: Anh Nông Văn T  39 tuổi Địa chỉ: Thôn Sơn Hạ- xã M- huyện L- tỉnh Y, đã được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 02-10-2020 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Trần Thị Nh trình bày: Chị và anh Nông Văn T kết hôn tháng 01 năm 2007 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn lại tại UBND xã M- huyện L- tỉnh Y. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, nguyên nhân là do anh T không quan tâm đến gia đình, hay đi rượu chè về gây sự. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, nhiều lần anh T đánh chị, có lần đánh chị gãy tay, chị phải đề nghị Công an giải quyết nhưng anh T cố tình không đến. Gia đình hai bên khuyên nhủ, chị cũng đã nhiều lần tha thứ nhưng anh T vẫn không thay đổi. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Chị và anh T có hai cháu là Nông Tuấn T sinh ngày 13-11-2007 và Nông Thuý H sinh ngày 26-01- 2015. Khi ly hôn chị sẽ nuôi các cháu và yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng/1 cháu. Về tài sản chung và công nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y đã ra văn bản thông báo và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Nông Văn T vẫn không có mặt nên Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục pháp luật quy định.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến: Qúa trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 56; các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho chị Nh được ly hôn với anh T, giao các con cho chị Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; buộc anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật …

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp giữa chị Trần Thị Nh và anh Nông Văn T là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện L. Mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh T vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tình cảm: Chị Trần Thị Nh và anh Nông Văn T kết hôn năm 2007, việc kết hôn này tuân thủ đúng những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại điều 19 luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Kết quả xác minh tại địa phương cơ bản phù hợp với lời khai của nguyên đơn cho thấy do nhiều nguyên nhân nên trong những năm qua vợ chồng chị Nh- anh T không hạnh phúc, trong đó nguyên nhân chính là do tính cách, lối sống không hợp nhau. Anh T hay chơi bời, rượu chè về gây sự. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau; nhiều lần anh T đánh vợ. Qúa trình giải quyết chị Nh khẳng đình tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết đề nghị giải quyết cho ly hôn. Qua đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Nh- anh T đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nh có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Nh và anh T có hai cháu là Nông Tuấn T sinh ngày 13-11-2007 và Nông Thuý H sinh ngày 26-01-2015. Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Nh đề nghị được nuôi cả hai cháu và yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Xét hoàn cảnh thực tế anh T thường xuyên đi làm, cháu T và cháu H do chị Nh chăm sóc; mặt khác cháu Tú đã trên 07 tuổi và có đơn đề nghị được ở với mẹ. Để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, cần giao cả hai cháu cho chị Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với hoàn cảnh thực tế.

Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại khoản 2 điều 82 Luật hôn nhân và gia đình thì “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”, như vậy yêu cầu của chị Nh về vấn đề này là chính đáng. Kết qủa xác minh cho thấy anh T hiện đi làm công nhân, thu nhập bình quân khoảng 6.000.000 đến 7.000.000 đồng/tháng. Mức cấp dưỡng 500.000 đồng/tháng theo yêu cầu của chị Nh là phù hợp với khả năng kinh tế hiện tại của anh T nên cần được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Nh không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nh phải chịu án phí ly hôn; anh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1- Về tình cảm: Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Trần Thị Nh được ly hôn với anh Nông Văn T.

2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điều 357 Bộ luật Dân sự; giao cả hai cháu là Nông Tuấn T sinh ngày 13-11-2007 và Nông Thuý H sinh ngày 26-01-2015 cho chị Trần Thị Nh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nông Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con mỗi tháng 500.000 đồng/một cháu kể từ tháng 02 năm 2021 cho đến khi cháu Tuấn, cháu Hẳng đủ 18 tuổi và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3- Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Chị Trần Thị Nh phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị Nh đã nộp đủ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2017/0008272 ngày 02-10-2020.

- Anh Nông Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

4- Quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Nông Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

5- Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về