Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về kiện xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Trong ngày 12/01/2021 tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 288/2020/TLST-HNGĐ ngày 20/11/2020 về kiện xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29/12/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Trần Thùy A, sinh năm 1991. ĐKNKTT: thôn Đức, Phường ĐNĐ, TP ĐH, tỉnh Quảng Bình. Địa chỉ cần báo: Ngõ 78 HHT, phường BL, TP. ĐH, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đặng Văn S, sinh năm 1987. ĐKNKTT: 74 Đ HT, thôn Đức, Phường ĐN Đ, TP ĐH, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01/10/2020, được bổ sung tại bản tự khai, phiên hòa giải và các đơn trình bày, cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Trần Thùy A trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Đặng Văn S kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường ĐNĐ, TP. Đ H, tỉnh Quảng Bình vào ngày 16/7/2014. Quá trình chung sống thì phát sinh mâu thuẩn do khác biệt về quan điểm sống khiến cho mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm không còn, đã sống ly thân từ tháng 5/2020. Anh chị đã nhiều lần tranh cải để đi đến thống nhất các biện pháp khắc phục nhưng không đem đến kết quả, ai cũng giữ quan điểm sống của mình nên cả hai nhất trí ly hôn để giải phóng cho nhau. Nguyện vọng đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Tại bản tự khai, buổi hòa giải và tại phiên tòa anh Đặng Văn S trình bày: anh và chị Phạm Trần Thùy A có đăng ký kết hôn vào ngày, tháng, năm và nơi đăng ký kết hôn như chị Thùy A trình bày, anh chị kết hôn hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống có một số mâu thuẩn nhỏ giữa chị Thùy A với các thành viên trong gia đình của anh. Bản thân anh luôn muốn gia đình hòa thuận, con cái có cả ba và mẹ để nuôi dưỡng đầy đủ, không bị thiệt thòi. Thời gian đầu anh muốn hòa giải để được đoàn tụ gia đình nhưng quá trình giải quyết tại tòa án, anh thấy mâu thuẩn ngày càng trầm trọng, mặc dù anh đã tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẩn mong hàn gắn gia đình. Tại phiên tòa anh vẫn không muốn ly hôn nhưng nếu chị vẫn kiên quyết xin ly hôn thì anh cũng đồng ý. Hiện vợ chồng đã sống ly thân.

- Về con chung: Chị Thùy A và anh S cùng khai có 01 con chung: Đặng Gia H, sinh ngày: 19/4/2015.

Chị Thùy A có nguyện vọng sau khi ly hôn xin được trực tiếp nuôi con dưỡng con chung là Đặng Gia H vì con còn nhỏ và là con gái cần sự quan tâm, gần gủi của mẹ để hỗ trợ cháu về tâm sinh lý sau này. Hiện con chung đang sống cùng chị tại nhà bố mẹ của chị. Chị yêu cầu anh đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con 2.500.000đ cho đến khi con tròn 18 tuổi vì hiện nay anh S có công việc và thu nhập ổn định.

Ý kiến của anh Đặng Văn S cũng có nguyện vọng trực tiếp nuôi cháu Đặng Gia H, anh cho rằng anh có thu nhập, anh cũng đủ khả năng để chăm sóc con và anh không yêu cầu chị Thùy A đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Thùy A và anh S đều không yêu cầu tòa án giải Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã tiến hành triệu tập các bên đương sự đến làm bản tự khai, tiến hành phiên kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hai phiên hòa giải. Anh chị không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Trần Thùy A có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; là nơi bị đơn anh Đặng Văn S có địa chỉ cư trú: thôn Đức, phường Đ N Đ, thành phố Đ H. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới. Sau khi thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã ra thông báo thụ lý vụ án và gửi cho các bên đương sự kèm theo giấy triệu tập đến Tòa án để làm bản tự khai. Tòa án tiến hành thông báo về phiên hòa giải và tiếp cận chứng cứ theo quy định. Các bên đương sự không thỏa thuận được các vấn đề để giải quyết vụ án. Do đó vụ án thuộc trường hợp hòa giải không thành nên ngày 12/01/2021 Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo Quyết định xét xử số 136/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Trần Thùy A và anh Đặng Văn S đã xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Đáng lẽ ra anh, chị phải biết thương yêu, quý trọng chăm sóc lẫn nhau, nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc. Nhưng anh chị đã không làm được điều đó để giữ gìn hôn nhân bền vững mà lại để xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống của mỗi người khác nhau, không biết cảm thông, chia sẽ dẫn đến xích mích giữa cá nhân với gia đình khi sống chung cùng bố mẹ. Bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt dần dần dẫn đến mâu thuẩn trầm trọng. Anh chị cũng đã tìm cách khắc phục nhưng không có kết quả, từ đó đã sống ly thân, ai lo nấy, chị cùng con bỏ về nhà mẹ đẻ của chị, anh không quan tâm chị kể cả những lúc ốm đau. Quá trình giải quyết tại Tòa án, anh S mong muốn đoàn tụ nhưng không đưa ra được biện pháp để giải quyết, sau đó anh cũng thừa nhận mâu thuẩn đã đến múc trầm trọng không thể hóa giải và cho rằng nếu chị Thùy A kiên quyết ly hôn thì anh cũng đồng ý. Điều đó thể hiện rằng mâu thuẩn vợ chồng là có, không có biện pháp khắc phục, tình cảm vợ chồng đã thực sự không thể níu kéo, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể sống chung hạnh phúc nên cần thiết phải cho chị Thùy A được ly hôn anh S là hoàn toàn phù hợp với quy định tại điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Thùy A và anh S đều thừa nhận quá trình chung sống có 01 con chung là Đặng Gia H, sinh ngày: 19/4/2015 hiện cháu đang ở với chị Thùy A. Nguyện vọng của cả hai anh chị đều muốn trực tiếp nuôi con, anh chị đều là cán bộ có thu nhập ổn định, đảm bảo cho việc nuôi con, đây đều là nguyện vọng chính đáng của người làm cha, làm mẹ cần được tôn trọng. Tuy nhiên, xét thấy con chung hiện đang ở với chị Thùy A từ lúc ly thân cho đến nay, cháu là con gái cần sự chăm sóc nuôi dưỡng trực tiếp của người mẹ sẽ tốt hơn cho cháu, đồng thời tránh sự xáo trộn về cuộc sống cũng như tâm sinh lý của tuổi nhỏ. Vì vậy, việc giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp về điều kiện. Cần buộc anh S đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con một tháng 1.500.000đ, kể từ tháng 01/2021 cho đến khi cháu tròn 18 tuổi.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Anh, chị khai không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[2.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình tuyên xử cho chị Phạm Trần Thùy A được ly hôn anh Đặng Văn S.

2. Về con chung: Áp dụng Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, xử: Giao 01 con chung là Đặng Gia H, sinh ngày: 19/4/2015 cho chị Phạm Trần Thùy A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Anh Đăng Văn S đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con một tháng 1.500.000đ, kể từ tháng 01/2021 cho đến khi cháu tròn 18 tuổi.

Người không trực triếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được ngăn cản người đó thực hiện quyền này.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 BLTTDS và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án, xử: Buộc chị Phạm Trần Thùy A phải chịu 300.000đ án phí ly hôn. Số tiền chị phải nộp được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới theo Biên lai số AA/2017/0006706 ngày 20 tháng 10 năm 2020, chị đã nộp đủ. Anh Đặng Văn S phải chịu 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về