Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳ Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 80/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:69/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị H. Sinh năm: 1993.

Trú tại: Bản Th, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Tạm trú: Bản V, xã H, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lương Văn S. Sinh năm: 1993.

Trú tại: Bản Th, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lương Thị H trình bày: Chị Lương Thị H và anh Lương Văn S chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện từ năm 2010 và có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định vào ngày 31 tháng 12 năm 2013 tại UBND xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn không tự giải quyết được. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, quan hệ vợ chồng không còn tình cảm và không còn hạnh phúc. Vì vậy, chị H làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Lương Văn S.

Về quan hệ con cái: Chị Lương Thị H và anh Lương Văn S có hai con chung là cháu Lương Thị Hải Y, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2010 và cháu Lương Thị V, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2013. Vào thời điểm nộp đơn khởi kiện, chị H xin nhận nuôi dưỡng cháu Lương Thị Hải Y còn anh S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lương Thị V, không bên nào phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị H thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, chị đề nghị được giao nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh S phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra, hai người không nhận nuôi con nuôi và không ai có con riêng.

Về tài sản: Theo đơn khởi kiện thì chị H và anh S có khối tài sản chung trị giá 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) và chị H yêu cầu chia đôi số tài sản nói trên. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị H thay đổi một phần yêu cầu khưởi kiện, đó là không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản.

Sau khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải cho anh Lương Văn S, tuy nhiên anh S không có mặt tại Tòa án để tham gia giải quyết vụ án. Qua xác minh tại UBND xã C được biết, sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án, các Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải thì cán bộ UBND xã C đã trực tiếp đi giao cho anh Lương Văn S. Tuy nhiên, anh S không có mặt ở nhà nên không thể tống đạt được các văn bản tố tụng nói trên. Theo thông tin của chị Lương Thị H và bố đẻ của anh Lương Văn S (Ông Lương Văn Ch) cung cấp cũng như kết quả xác minh tại Ban công an xã Châu H được biết, anh Lương Văn S có hộ khẩu thường trú tại bản Th, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Hiện nay anh S không có mặt tại địa phương, không biết anh S đi đâu, làm gì, anh S cũng không làm thủ tục khai báo tạm vắng theo quy định. Quá trình giải quyết vụ án và chuẩn bị xét xử, cán bộ Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu đã trực tiếp tiến hành thực hiện việc tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập phiên tòa cho anh S nhưng anh không có mặt ở nhà nên không thực hiện được việc tống đạt các văn bản nói trên. Vì vậy, cán bộ Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu đã tiến hành niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập phiên tòa theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, hai con chung của chị Lương Thị H và anh Lương Văn S - cháu Lương Thị Hải Y và cháu Lương Thị V trình bày: Nếu bố mẹ ly hôn thì có nguyện vọng được ở với mẹ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Cho chị H được ly hôn với anh S, giao cả hai con chung cho chị H nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh S. Áp dụng điều 147 BLTTDS, buộc anh S phải chịu án phí DSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa chị Lương Thị H và anh Lương Văn S là “Ly hôn”. Vì vậy, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu theo quy định tại khoản 1 điều 28 và điểm a khoản 1 điều 35 BLTTDS.

[1.2] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, chị Lương Thị H thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện. Đó là, chị H không đề nghị Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Căn cứ khoản 2 Điều 71 BLTTDS, chấp nhận yêu cầu này của chị Lương Thị H.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Lương Văn S không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án và cố tình giấu địa chỉ. Đây là lần thứ hai Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Xét thấy, bị đơn không có yêu cầu phản tố. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 3 điều 228 BLTTDS; điểm a khoản 2 điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Lương Văn S.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ tình cảm: Hôn nhân giữa chị Lương Thị H và anh Lương Văn S được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có đăng ký kết hôn phù hợp với quy định của pháp luật. Quá trình chung sống thì giữa hai người đã xảy ra mâu thuẫn, nay chị Hương nhất quyết ly hôn. Thấy rằng, hôn nhân của chị H - anh S không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị Lương Thị H được ly hôn với anh Lương Văn S, điều này là phù hợp với thực tế cuộc sống và cũng là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Quan hệ con cái: Vợ chồng có hai người con chung, ngoài ra không ai có con riêng và không nhận nuôi con nuôi. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị H đề nghị được giao nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh S phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Thấy rằng, việc giao con chung chưa thành niên cho ai nuôi sau khi vợ chồng ly hôn là xuất phát từ quyền lợi của người con được nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất về mọi mặt. Theo lời khai của cả hai con chung thì nếu bố mẹ ly hôn đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét thấy, bản thân chị Hương có sức khỏe, có nhận thức và khả năng làm ăn để nuôi con; bên cạnh đó, anh Sơn hiện không có mặt tại địa phương nên yêu cầu của chị H là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật. Cần chấp nhận yêu cầu của chị H, giao hai con chung cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lương Văn S.

[2.3] Quan hệ tài sản: Chị Lương Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Vì vậy, nên miễn xét.

[3] Về án phí: Cần buộc chị Lương Thị H phải chịu án phí DSST về ly hôn.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 2 Điều 227;khoản 3 Điều 228 và Điều 147 BLTTDS;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu của chị Lương Thị H. Cho chị Lương Thị H được ly hôn với anh Lương Văn S.

2. Về con cái:

- Giao cháu Lương Thị Hải Y, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2010 và cháu Lương Thị V, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2013 cho chị Lương Thị H chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi trưởng thành.

- Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho và anh Lương Văn S.

- Anh Lương Văn S có quyền đi lại, thăm nom và giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0000797 ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu. Trả lại cho chị Lương Thị H số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001728 ngày 12/11/2020 Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lương Thị H có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án và anh Lương Văn S có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về