Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHÁNH VĨNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 218/2020/TLST –HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2020/QĐST – HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 61/2020/QĐST – HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Lệ X - Sinh năm 1976 Nơi cư trú: Tổ dân phố Hòa D, phường Cam Phúc B, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.

Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H `- Sinh năm: 1973 Nơi cư trú: Tổ dân phố Hòa D, phường Cam Phúc B, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 05/10/2020, bản tự khai ngày 26/10/2020, các tài liệu trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Lệ X trình bày: Tôi và ông Nguyễn Văn H tự nguyện kết hôn năm 1996, được UBND xã Cam Phúc B, huyện C (nay là phường Cam Phúc B, thành phố C) cấp giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số 01/96, ngày 05 tháng 9 năm 1996.

Trong suốt quá trình chung sống ông H thường xuyên ăn nhậu, ghen tuông vô cớ rồi về nhà chửi mắng vợ con. Bao nhiêu năm tôi đã cố gắng chịu đựng và cho ông H cơ hội nhưng rồi vẫn như cũ, tôi đã nhiều lần nộp đơn đến Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn, tuy nhiên ông H năn nỉ và hứa thay đổi nên tôi đã rút đơn. Sau khi rút đơn về ông H vẫn chứng nào tật ấy. Hiện nay chúng tôi không còn sống chung với nhau nữa. Vì vậy tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

Về con chung: Chúng tôi có 02 con chung tên Nguyễn Thái H1, sinh ngày 28/8/1997 và Nguyễn Thị Bích N, sinh ngày 04/7/2003. Sau khi ly hôn tôi đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Thị Bích N cho tôi trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Đối với con Nguyễn Thái H1 hiện nay đã trên 18 tuổi và đã lập gia đình nên tự quyết định.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Văn H vắng mặt và trong suốt quá trình giải quyết vụ án ông H cũng không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.

Nguyên đơn chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn bà Lê Thị Lệ X. Ghi nhận sự tự nguyện của bà X về việc không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án ý kiến của nguyên đơn, ý kiến đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt, Tòa án căn cứ theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

- Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Thị Lệ X vắng mặt, tuy nhiên bà X có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Tòa án căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiếp tục xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Lệ X và ông Nguyễn Văn H tự nguyện kết hôn năm 1996, được UBND xã Cam Phúc B, huyện C (nay là phường Cam Phúc B, thành phố C) cấp giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số 01/96, ngày 05 tháng 9 năm 1996 nên xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Trong suốt quá trình chung sống giữa bà Lê Thị Lệ X và ông Nguyễn Văn H thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do ông H hay ăn nhậu, ghen tuông vô cớ, chửi mắng vợ con. Bà X đã cố gắng chịu đựng, cho ông H cơ hội và đã nhiều lần nộp đơn đến Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn, tuy nhiên ông H hứa thay đổi nên bà Hòa đã rút đơn. Sau khi rút đơn về ông H vẫn chứng nào tật ấy. Hiện nay bà X và ông H không còn sống chung với nhau nữa. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa đã đến mức trầm trọng, có kéo dài để sống chung thì mục đích hôn nhân cũng không đạt được. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Lệ X đối với ông Nguyễn Văn H.

[3] Về con chung: Nguyên đơn xác định có 02 (hai) con chung là Nguyễn Thái H1, sinh ngày 28/8/1997 và Nguyễn Thị Bích N, sinh ngày 04/7/2003.

Cháu Nguyễn Thái H1, đã trên 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Đối với cháu Nguyễn Thị Bích N: Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Nguyên đơn mong muốn được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu N đến tuổi trưởng thành, thực tế từ trước đến nay cháu N sống cùng nguyên đơn và được đảm bảo đầy đủ điều kiện sống và học tập. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu N cho nguyên đơn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành.

Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn bà Lê Thị Lệ X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Lê Thị Lệ Xuân được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Bích N, sinh ngày 04/7/2003 cho bà Lê Thị Lệ Xuân trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà X không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Bà Lê Thị Lệ X phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai số AA/2019/00000818 ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C. Như vậy, bà Lê Thị Lệ X đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Quy định: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khánh Vĩnh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về