TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 19/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2020/HSST ngày 07/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 08/10/2020 đối với các bị cáo:
1. Hoàng Sỹ Đ, sinh năm 1994.
HKTT: Thôn C, xã R, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp:Tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Sỹ H, sinh năm 1962 và bà Lê Thị V, sinh năm 1963; Gia đình bị cáo có bị cáo là con duy nhất; Vợ, con: Chưa có.
Tiền án: Bản án số 58/2018/HS-ST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình xử phạt bị cáo 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong toàn bộ bản án.
- Tiền sự: Ngày 07/09/2018, Công an huyện Gia Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng, hiện chưa nộp tiền phạt.
- Nhân thân: Ngày 07/02/2018, Công an huyện Gia Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hình thức phạt tiền. Đã chấp hành xong.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh từ ngày 14/7/2020 đến nay. Có mặt tại phiên toà.
2. Nguyễn Đắc M, sinh năm 1995.
HKTT: Thôn H, xã T, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đắc T, sinh năm 1975 và bà Trần Thị B, sinh năm 1976; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là thứ nhất; Vợ, con: Chưa có.
-Tiền án: Bản án số 67/2017/HS-ST ngày 21/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.
- Tiền sự: Ngày 20/02/2019, Chủ tịch UBND xã Giang Sơn ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn 03 tháng.
- Nhân thân: Ngày 04/07/2016, Công an huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng. Hết thời hiệu thi hành.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gia Bình từ ngày 14/07/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đắc M: Ông Lại Xuân Cường, Luật sư Công ty Luật TNHH Kiên Trần. Địa chỉ: BT03-262 Nguyễn Huy Tưởng, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
Bị hại: Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1969. HKTT: Thôn T, xã G, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. (Xin xét xử vắng mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Thị N, sinh năm 1997. HKTT: Xóm 5, thôn 4, xã Đức Bình, huyện R, tỉnh Bình Thuận. Hiện trú tại: Thôn Hữu F, xã S, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. (Có mặt).
+ Ông Trần Quốc H, sinh năm 1996. HKTT: Thôn H, xã S, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. (Xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 08/07/2020, Nguyễn Đắc M đang ở nhà thì Hoàng Sỹ Đ gọi điện thoại rủ M đi chơi. M đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu trắng đen, không gắn biển kiểm soát do M mượn của bạn là chị Thị N để đi đến nhà Đ. Tại đây, do không có tiền tiêu xài nên Đ rủ M đi trộm cắp tài sản, M đồng ý. M điều khiển xe trở Đ đi xem ai có tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi M và Đ đi qua nhà ông Nguyễn Hữu T, M nhìn thấy trong sân có dựng một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream, BKS: 99H1- 023.62, xe không khóa cổ, khóa càng, chìa khóa xe treo ở tay phanh xe, tại yên sau xe có gắn chiếc giá chở hàng bằng kim loại. Quan sát thấy cửa cổng không khóa, xung quanh không có người trông giữ nên M và Đ nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên. M dừng xe đứng bên ngoài đợi, Đ xuống xe đi bộ vào trong sân nhà ông Truyền dắt chiếc xe ra khỏi cổng, Đ lấy chìa khóa treo trên tay phanh xe mở khóa điện nổ máy điều khiển xe đi đến quán sửa xe của anh Đoàn Khắc Nam, sinh năm 1972, HKTT: thôn Tĩnh Xá, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, lúc này M cũng điều khiển xe của M đi theo sau. Trên đường đi, Đ và M dùng cờ lê có sẵn trong cốp xe của chị N để tháo BKS của xe và giỏ trước của xe vừa trộm được vứt trên đường. Khi đi đến quán của anh Nam, Đ và M nhờ anh Nam tháo từ chiếc xe vừa trộm cắp 02 chiếc gương chiếu hậu và chiếc giá chở hàng bằng kim loại và để lại quán sửa xe của anh Nam. Sau đó, Đ và M mang chiếc xe đã trộm cắp đến nhà anh Trần Quốc Đ, sinh năm 1990 ở thôn Chi Nhị, xã Song Giang, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh tìm gặp anh Trần Quốc H cầm chiếc xe vừa trộm được để vay anh H số tiền 2.200.000 đồng. Số tiền có được, Đ giữ lại 1.200.000 đồng và chia cho M 1.000.000 đồng.
Ngày 13/07/2020, ông Nguyễn Hữu T đến Công an huyện Gia Bình trình báo việc bị trộm cắp tài sản.
Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Bình đã tiến hành khám nghiệm hiện trường tại nhà ông Truyền nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì. Mở rộng hiện trường, qua rà soát camera giám sát của gia đình các hộ dân xung quanh, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Bình đã thu giữ dữ liệu điện tử tại ổ cứng lưu trữ hình ảnh camera Cam2 của gia đình chị Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1991 ở thôn Hữu Ái, xã Giang Sơn, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh 01 đoạn video ghi lại hình ảnh 02 nam thanh niên điều khiển xe mô tô, trong đó có 01 nam thanh niên điều khiển xe mô tô giống xe của ông Truyền. Đoạn video này được ghi ra đĩa DVC và được niêm phong theo quy định.
Ngày 14/07/2020, Hoàng Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M đến Công an huyện Gia Bình đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại cơ quan Công an, Đ giao nộp số tiền 90.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen bên trong có gắn thẻ sim 0862880240, 01 áo dài tay màu xanh có mũ liền. M giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu trắng đen, BKS: 99H1- 310.81:
01 cờ lê có một đầu có số 10 và một đầu có số 14.
Ngày 15/07/2020, anh Trần Quốc H giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream màu nâu, số khung Y160617, số máy 1460521.
Ngày 25/07/2020, anh Đoàn Khắc Nam giao nộp 01 chiếc giá chở hàng bằng kim loại và 02 chiếc gương chiếu hậu xe mô tô Honda Super Dream.
Tại Kết luận định tài sản trong tố tụng hình sự số 26/KL-HĐĐG ngày 20/07/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Gia Bình kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Dream dung tích 97cm, do Hon da Việt Nam sản xuất năm 2011, đăng ký lần đầu và đưa vào sử dụng tháng 11/2011, màu sơn nâu, số khung Y160617, số máy 1460521, phanh cơ, vành nan hoa, xe vẫn hoạt động bình thường, không gắn gương, không có lượn giữa, yếm vỡ, yên rách, có giá trị là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).
Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 28/KL- HĐĐG ngày 09/08/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Gia Bình kết luận: Giá trị thực tế còn lại của 01 (một) chiếc giá chở hàng bằng kim loại, cũ đã qua sử dụng là 150.000 đồng; Giá trị thực tế còn lại của 01 (một) đôi gương chiếu hậu của xe mô tô nhãn hiệu Super Dream do Honda Việt Nam sản xuất năm 2011, cũ đã qua sử dụng là 40.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản cần định giá là 190.000 đồng (một trăm chín mươi nghìn đồng).
Với nội dung trên, Cáo trạng số 70/CTr-VKSNDGB ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình truy tố Hoàng Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự Quá trình xét hỏi tại phiên toà, các bị cáo Đ và M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình duy trì quyền công tố, sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Hoàng Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1, Khoản 5 Điều 173; Điểm s Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điểm h, Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Hoàng Sỹ Đ từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Xử phạt Nguyễn Đắc M từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Phạt bổ sung bị cáo Hoàng Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.
Trách Nệm dân sự: Không.
Xử lý Vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự: Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 90.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen, cũ đã qua sử dụng.
Tịch thu tiêu huỷ thẻ sim số 0862880240, 01 áo dài tay, màu xanh có mũ liền.
Trả lại cho chị Thị N 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu trắng đen, BKS: 99H1- 310.81, số khung RLHJA3656KY035054; số máy JA36E-0813556 (cùng chìa khóa xe) xe cũ đã qua sử dụng; 01 cờ lê có một đầu có số 10 và một đầu có số 14.
Các bị cáo Đ và M thừa nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng truy tố là đúng, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo M sau khi phân tích đánh giá chứng cứ thấy bị cáo M có Nều tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự như thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội bị cáo đến cơ quan Công an đầu thú, có thời gian tham gia quân ngũ và bị cáo thực hiện tội phạm nhưng chưa gây thiệt hại và gây thiệt hại không lớn nên đề nghị Hội đồng xét xử xenm xét cho bị cáo M được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và đề nghị cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự quy định tại Điểm h, Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để bị cáo sớm trở về với cộng đồng và xã hội.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của các bị cáo, của người bào chữa.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.
Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 08/07/2020, tại thôn Tiêu Xá, xã Giang Sơn, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Hoàng Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M đã có hành vi lén lút trộm cắp của ông Nguyễn Hữu T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream, BKS 99H1- 023.62, trên xe có gắn giá đèo hàng bằng kim loại có tổng trị giá là 8.190.000 đồng.
Hành vi của các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng truy tố các bị cáo Hoàng Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M theo Khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra còn gây mất trật tự tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, tạo dư luận không tốt trên địa bàn. Do vậy cần có một hình phạt tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[2] Xét tính chất, vai trò: Trong vụ án này, bị cáo Đ là người khởi xướng, rủ M đi trộm cắp tài sản. Đ là người trực tiếp thực hiện phạm tội còn M là người lấy xe chở Đ và đứng ngoài cảnh giới để Đ thực hiện việc trộm cắp tài sản, do vậy khi xem xét quyết định hình phạt thì bị cáo Đ phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo M.
[3] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách Nệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án đưa ra xét xử Nều lần, bị xử phạt hành chính Nều lần và được đi cải tạo nhưng không tiến bộ. Vì lòng tham của mình mà các bị cáo trộm cắp tài sản của người khác để thoả mãn nhu cầu cá nhân. Tuy Nên tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản các bị cáo trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường; sau khi phạm tội, các bị cáo ra Công an đầu thú, bị cáo M có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo chưa được xóa án tích lại phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự quy định tại Điểm h, Khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Xét lời đề nghị của người bào chữa cho bị cáo M cho rằng các bị cáo thực hiện tội phạm chưa gây thiệt hại và mức thiệt hại cũng không lớn nên đề nghị được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm h, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện xong, tài sản trộm cắp các bị cáo đã mang cầm cố lấy tiền ăn tiêu cá nhân, Giá trị tài sản trộm cắp sau khi định giá là 8.190.000 đồng nên không thể cho rằng bị cáo thực hiện tội phạm nhưng chưa gây thiệt hại và mức thiệt hại không lớn, do vậy không chấp nhận lời đề nghị của người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm h, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo M như đề nghị của Luật sư được.
[4] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách Nệm hình sự của các bị cáo, đối chiếu với các quy định pháp luật và xét đề nghị của Đại điện Viện kiểm sát huyện Gia Bình là có căn cứ, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, biết tuân thủ pháp luật.
[5] Hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[6] Trách Nệm dân sự:
Tại phiên tòa, ông Nguyễn Hữu T xin vắng mặt, ông đã nhận lại tài sản là chiếc xe máy. Đối với chiếc BKS 99H1- 023.62 và chiếc giỏ xe Đ và M đã tháo và vứt trên đường hiện chưa tìm được, Ông Truyền không đề nghị định giá và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường do vậy không đặt ra xem xét.
Đối với số tiền 2.200.000 đồng mà anh Trần Quốc H đã cho Đ vay, do là bạn bè và số tiền không lớn nên anh H không yêu cầu Đ phải bồi thường, xét đây là sự tự nguyện của đương sự do vậy không xem xét.
[7] Xử lý vật chứng:
Đối với số tiền 90.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen do bị cáo Đ giao nộp là tiền do phạm tội mà có, chiếc điện thoại bị cáo dùng để liên lạc trao đổi phục vụ việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà Nước. Đối với chiếc thẻ sim 0862880240 và áo dài tay màu xanh có mũ liền, tại phiên tòa bị cáo Đ xác định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu trắng đen, BKS:
99H1- 310.81, 01 cờ lê một đầu có số 10 và một đầu số 14 xét thấy đây là tài sản hợp pháp của chị N, khi cho M mượn chị N không biết việc M dùng để đi trộm cắp tài sản do vậy cần trả cho chị N là phù hợp.
Đối với 01 chiếc đĩa DVC bên trong chứa đoạn video ghi lại hình ảnh liên quan đến Đ và M trộm cắp xe mô tô đã được niêm phong cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Liên quan trong vụ án này có anh Trần Quốc H là người nhận giữ chiếc xe máy mà Đ và M đã trộm cắp được làm tin và cho Đ vay 2.200.000 đồng, quá trình điều tra xác định, khi cho Đ vay tiền, anh H không biết chiếc xe trên là do trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh H là phù hợp.
Đối với anh Trần Quốc Đ là chủ nhà nơi Đ đến gặp anh H để vay tiền và để lại xe trộm cắp làm tin, quá trình điều tra xác định anh Đ không biết và không chứng kiến việc giao dịch trên của Đ và anh H nên không có căn cứ để xem xét xử lý.
Đối với anh Đoàn Khắc Nam là người tháo chiếc giá đèo hàng và gương chiếu hậu của xe mà Đ và M đã trộm cắp, anh Nam không biết chiếc xe trên là do trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh Nam là đúng quy định.
Đối với việc chị Thị N cho M mượn xe, khi cho mượn, chị N không biết M sử dụng để đi trộm cắp tài sản nên không có căn cứ để xử lý đối với chị N.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Hoàng Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ Khoản 1, Điều 173; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm h, Khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Sỹ Đ 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2020. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 19/10/2020.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đắc M 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày14/7/2020. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 19/10/2020.
- Trách Nệm dân sự: Không.
- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 90.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen, cũ đã qua sử dụng.
Tịch thu tiêu huỷ thẻ sim số 0862880240, 01 áo dài tay, màu xanh có mũ liền.
Trả lại cho chị Thị N 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu trắng đen, BKS: 99H1- 310.81, số khung RLHJA3656KY035054; số máy JA36E-0813556 (cùng chìa khóa xe) xe cũ đã qua sử dụng; 01 cờ lê có một đầu có số 10 và một đầu có số 14.
(Theo đúng biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Gia Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Gia Bình ngày 14/10/2020).
- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Các bị cáo Đ, M mỗi người phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, người liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại, Người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án./.
Bản án 02/2020/HS-ST ngày 19/10/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 02/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về