Bản án 02/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2018/TLST-HS, ngày 04 tháng 12 năm2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2018/QĐXXST - HS ngày 19 tháng12 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QDDST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Đình T, sinh ngày 13 tháng 5 năm 1998 tại huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Tổ dân E, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch Việt Nam; con ông Bùi Đình T1 và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 20/3/2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Huỳnh Ngọc Ất - Luật sư Văn phòng luật sư Quốc Ân thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi bào chữa cho Bùi Đình T. Có mặt.

- Người bị hại:

+ Anh Bùi Minh H1, sinh năm 1984. Vắng mặt

Trú tại: Tổ dân phố Y, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Hữu K, sinh năm 1989. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Trú tại: Thôn U, xã O, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người làm chứng:

- Ông Phạm Duy P, sinh năm: 1993. Vắng mặt không có lý do.

- Ông Nguyễn H2, sinh năm: 1990. Vắng mặt không có lý do.

- Ông Nguyễn Mạnh T2, sinh năm 1986. Vắng mặt không có.

- Ông Huỳnh Đức H2, sinh năm 1989. Vắng mặt không có.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 07/01/2017 Nguyễn Hữu K cùng Bùi Đình T, đi dạo chơi bằng xe mô tô tại thị trấn R, huyện Q thì Huỳnh Đức H2 điện thoại rủ K đến quán L thuộc tổ dân phố Y, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi đểnhậu cùng H2 và bạn của H2. K, T đồng ý nên cả hai đến quán L để nhậu. Tại quán lúc này có Bùi Minh H1, đang ngồi nhậu cùng bạn ở bàn khác. H1 biết K là người đang nợ tiền của mẹ H1 - bà Lương Thị T3 nên khi thấy K, H1 đã gọi K đến ngồi nói chuyện. Trong lúc nói chuyện thì H1 đề cập đến chuyện K thiếu tiền mẹ H1 nhưng lâu ngày chưa trả và có lời nói đe dọa yêu cầu K trả nợ. Sau một lúc nói chuyện thì K quay về lại bàn nhậu của mình tiếp tục nhậu.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, bàn nhậu của K tính tiền ra về. K cùng một số bạn bè đi ra trước quán lấy xe; còn Bùi Đình T đi vào nhà vệ sinh. Do bực tức việc H1 đe dọa mình nên K vào lại trong quán gọi H1 ra ngoài nói chuyện. Khi ngồi trên hè nói chuyện thì giữa K và H1 xảy ra mâu thuẫn; K đã dùng tay trái nắm lấy cổ áo của H1 còn tay phải thì đánh vào mặt H1 nhiều cái. Lúc này, Nguyễn Mạnh T2, đi chơi ngang qua thấy sự việc nên đã chạy đến can ngăn K nhưng K không buông ra. Tiếp sau đó, Phạm Duy P, cùng Nguyễn H2, đi ngang qua thấy sự việc đánh nhau đã dừng xe lại; P thấy K đang đánh H1 thì can ngăn nhưng K vẫn nắm giữ cổ áo và đánh H1. Lúc này, Bùi Đình T từ trong nhà vệ sinh đi ra và thấy K, H1 đang giằng co đánh nhau ở phía trước quán nên chạy đến. T dùng tay phải nhặt 01 phần viên gạch (loại gạch lát vỉa hè) có kích thước (21 x 13,5 x 5) cm ở phía trước quán L đánh vào phần đầu bên trái của H1 01 cái làm H1 bị té ngã nằm dưới lòng đường tỉnh lộ 628. Tiếp đó, K dùng chân đá 01 cái vào vùng mặt, thì bạn bè và người dân can ngăn ra. Sau đó, H1 được gia đình đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa Đ đến ngày 25/01/2017 thì xuất viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 26/2017/GĐPY, ngày 03/3/2017 của phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi kết luận: Tổn thương sọ não:39% (ba mươi chín phầm trăm); tổn thương xương hàm dưới phải: 5% (năm phần trăm).

Kết quả điều tra xác định thương tích tổn thương sọ não 39% của H1 là do hành vi Bùi Đình T gây nên. Thương tích tổn thương xương hàm dưới phải 5% của H1 là do Nguyễn Hữu K gây nên.

Trong vụ án này thì giữa K và T không có sự bàn bạc, phân công từ trước trong việc thực hiện hành vi gây thương tích cho Bùi Minh H1 thể hiện hành vi mang tính độc lập. Do đó, trong vụ án này không có tính chất đồng phạm giữa K và T.

Đối với hành vi của Nguyễn Hữu K đã gây thương tích cho H1 với tỷ lệ thương tật là 5% với tính chất côn đồ, hung hãn. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra bị hại Bùi Minh H1 đã có đơn đã bãi nại và không yêu cầu khởi tố hình sự đối với Nguyễn Hữu K nên Công an huyện Q xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích đối với K.

Cáo trạng số 1706/QĐ-VKS, ngày 23/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Bùi Đình T về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điểm c Khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Bùi Đình T phạm tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c Khoản 3 Điều 134; Điểm b, s khoản 1 Khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 32, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Bùi Đình T từ 42 đến 48 tháng tù.

Về phần dân sự: Gia đình bị cáo cùng với anh K và gia đình anh K đã bồi thường cho anh H1 tổng số tiền 196.543.701 đồng (Một trăm chín mươi sáu triệu năm trăm bốn mươi ba nghìn bảy trăm lẻ một đồng). Anh H1 đã nhận đủ số tiền và không yêu cầu bồi thường khoản tiền gì khác nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) viên gạch xi măng loại thường dùng để lát vỉa hè, bị bể một phần, có một mặt phẳng và một mặt nhám.

Người bào chữa cho bị cáo luật sư Huỳnh Ngọc Ất trình bày: Thống nhất với tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng. Tuy nhiên về tình tiết định khung quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 “phạm tội có tính chất côn đồ” theo Luật sư là không phù hợp. Vì giữa T và K là bạn bè nên khi thấy K đang giằng co đánh nhau với Bùi Minh H1 thì bị cáo mới có hành động nhằm giải vây cho bạn chứ không mang tính côn đồ. Luật sư đề nghị chỉ áp dụng một tình tiết định khung đó là dùng hung khí nguy hiểm để gây thương tích. Trong quá trình điều tra, truy tố và qua các lần xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đã tự nguyện bồi thường và tác động gia đình chăm sóc, bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại một số tiền rất lớn. Người bị hại đã nhiều lần có văn bản xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo 02 năm tù cũng thể hiện tính ren đe, giáo dục và cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Đình T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung vụ án. Lời khai của bị cáo Bùi Đình T phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Bùi Đình T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; đủ khả năng hiểu biết và điều khiển hành vi của bị cáo. Khi thấy anh Nguyễn Hữu K đang đánh anh Bùi MinhH1 vào khoảng 21 giờ, ngày 07/01/2017 tại trước quán L thuộc tổ dân phố Y, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi thì bị cáo Bùi Đình T đã ngang nhiên, vô cớ dùng viên gạch lát vỉa hè đánh vào đầu phía bên trái của Bùi Minh H1 dẫn đến thương tích tổn thương sọ não.

Giữa bị cáo và Bùi Minh H1 không có mâu thuẫn với nhau nhưng bị cáo đã vô cớ dùng viên gạch bể lát đường là hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho Bùi Minh H1 còn thể hiện tính côn đồ, xem thường pháp luật, xem thường sức khỏe của người khác.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 26/2017/GĐPY ngày03/3/2017 của phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi kết luận tỉ lệtổn thương sọ não của anh H1 là 39%, tổn thương xương hàm dưới phải là 05%.

 [2] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Bùi Đình T phạm tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm c Khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bùi Đình T đã khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường và tích cực tác động đến gia đình đi chăm sóc cho anh H1 tại Bệnh viện Đ và bồi thường thiệt hại cho anh H1, người bị hại có văn bản đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s Khoản 1; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự khi xét xử đối với bị cáo cũng đảm bảo tính ren đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội. Mặt khác cũng thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

 [5] Trong quá trình xét xử sơ thẩm lần thứ nhất Hội đồng xét xử đã hai lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung vào các ngày 14/9/2017 và ngày 31/10/2017 để làm rõ dấu hiệu đồng phạm của Nguyễn Hữu K nhưng không được Viện kiểm sát nhân dân huyện Q chấp nhận. Ngày 15/12/2017 Tòa án huyện Q đã xét xử và tuyên phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 23/4/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 46/2018/HS-PT Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 21/2017/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Q để điều tra lại làm rõ đồng phạm của Nguyễn Hữu K với Bùi Đình T trong việc cố ý gây thương tích cho Bùi Minh H1, Cơ quan điều tra huyện Q đã có quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Hữu K và đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện Q không chấp nhận, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã có quyết định hủy Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Hữu K.

Ngày 23/10/2018 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Q ban hành cáo trạng số1706/QĐ-VKS truy tố Bùi Đình T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3, Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Sau khi nhận được hồ sơ, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án đã trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra làm rõ hành vi đồng phạm đối với Nguyễn Hữu K trong việc gây thương tích cho Bùi Minh H1 nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện Q không chấp nhận.

Căn cứ khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chỉ xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Bùi Đình T.

 [6] Đối với Nguyễn Hữu K là người đã gây thương tích về tổn thương xương hàm dưới phải cho anh Bùi Minh H1. Trong quá trình điều tra xác định được tỷ lệ thương tật mà K gây nên cho H1 là 5%. Anh H1 đã bãi nại, không yêu cầu khởi tố hình sự đối với Nguyễn Hữu K. Nên Công an huyện Q xử phạt hành chính về hành vi gây thương tích cho K.

 [7] Về phần dân sự: Gia đình bị cáo cùng gia đình anh Nguyễn Hữu K đã thay mặt cho bị cáo và anh K thỏa thuận bồi thường cho bị hại với tổng số tiền là 196.543.701 đồng (Một trăm chín mươi sáu triệu năm trăm bốn mươi ba nghìn bảy trăm lẻ một đồng). Trong đó ở giai đoạn xét xử sơ thẩm lần thứ nhất đã bồi thường 150.000.000 đồng. Sau khi xét xử anh H1 đi lắp sọ lần hai đã bồi thường 41.543.000 đồng; Đi ráp xương hàm đã bồi thường 5.000.000 đồng. Anh H1 đã nhận đủ tiền bồi thường và không có yêu cầu bồi thường thêm khoản tiền gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) viên gạch xi măng loại thường dùng làm để lát vỉa hè, bị bể một phần. Đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

 [9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Luật sư phù hợp với nhận định và phân tích của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận; đối với tình tiết côn đồ Luật sư bào chữa cho bị cáo lập luận không phù hợp nên không được chấp nhận.

 [10] Về án phí: Bị cáo Bùi Đình T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 3 Điều 134; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 32; Điều 38; ; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 47; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1.Tuyên bố: Bị cáo Bùi Đình T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2.Xử phạt bị cáo Bùi Đình T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/3/2017.

3. Buộc bị cáo Bùi Đình T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước.

4. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) viên gạch xi măng loại thường dùng làm để lát vỉa hè, bị bể một phần; có một mặt phẳng và một mặt nhám, có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/9/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hành - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về