Bản án 02/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 17/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Đông G, sinh năm 1987 tại tỉnh Phú Thọ; thường trú: Khu phố 10, xã X, huyện T, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1960 và bà Lê Thị H, sinh năm 1965; có vợ tên Phạm Thị Tuyết N, sinh năm 1984; có hai con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2013; tiền án: Ngày 30/8/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về Tội cướp giật tài sản theo Bản án hình sự số 56/2016/HSST; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/10/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Đinh Văn G, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 2/3 QĐ, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Anh Trương Thanh T, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp 3, xã Đ, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 26/10/2018, anh Đinh Văn G thuê phòng trọ tại xã Đ, huyện U, tỉnh Bình Dương ở cùng với bị cáo Trần Đông G và anh Trương Thanh T để làm trần thạch cao.

Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 28/10/2018, anh Đinh Văn G và anh Trương Thanh T đang ngủ trong phòng thì bị cáo Trần Đông G đi vào phòng lục trong túi quần của anh Đinh Văn G đang treo trên cầu thang lấy ví tiền, lấy tiền bên trong ví sau đó để ví lại. Sau đó, bị cáo lấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu hồng của anh Đinh Văn G và 01 điện thoại Samsung J7 màu trắng của anh T. Bị cáo G giấu tài sản lấy được trong túi quần, đi bộ ra khỏi phòng trọ về hướng thị trấn T bỏ trốn. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, anh Đinh Văn G thức dậy phát hiện bị mất điện thoại và số tiền 941.400 đồng, anh T mất điện thoại Samsung J7. Anh Đinh Văn G và anh Trương Thành T đi báo công an đồng thời đi tìm bị cáo G. Đến khoảng 03 giờ, ngày 29/10/2018 anh G và anh T phát hiện bị cáo G đang đi bộ trên đường nên đưa về Cơ quan công an làm việc.

Vật chứng trong vụ án gồm: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu hồng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7, màu trắng; số tiền 941.400 đồng; 01 điện thoại di động Oppo màu vàng, 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Đông G, 01 cái ví màu nâu, 01 cục sạc dự phòng màu trắng nhãn hiệu Arun và 01 tai nghe màu trắng hiệu Samsung.

Tại bản kết luận định giá số 203/KLHĐ-ĐGTS ngày 05/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Tân Uyên xác định 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus, 32G màu hồng trị giá 8.500.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 trị giá 2.500.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 11.941.400 đồng.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu hồng và số tiền941.400 đồng cơ quan cảnh  sát điều tra đã trả lại cho anh Đinh Văn G; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7, màu trắng cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Trương Thanh T.

Đối với 01 điện thoại di động Oppo màu vàng, 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Đông G, 01 cái ví màu nâu, 01 cục sạc dự phòng màu trắng nhãn hiệu Arun và 01 tai nghe màu trắng hiệu Samsung là tài sản của bị cáo Trần Đông G không liên quan đến hành vi phạm tội Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại tài sản trên cho bị cáo.

Bản cáo trạng số: 02/CT – VKS- BTU ngày 26 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Đông G về Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Trần Đông G mức án từ 09 đến 12 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản. Áp dụng Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 15 tháng tù về Tội cướp giật tài sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 30/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự Viện kiểm sát không đặt ra.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Đông G thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng đã nêu và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Khoảng 23 giờ ngày 28/10/2018, tại phòng trọ thuộc xã Đ, huyện U, tỉnh Bình Dương trong lúc anh Đinh Văn G và anh Trương Thanh T đang ngủ. Bị cáo Trần Đông G dùng tay lục túi quần lấy 01 ví da trong đó có số tiền 941.400 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus 32G màu hồng của anh Đinh Văn G và 01 điện thoại Samsung J7 của anh

Trương Thanh T. Sau đó, bị cáo đi ra khỏi phòng trọ bỏ trốn. Đến 03 giờ, ngày 29/10/2018 bị bắt giữ. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại tổng trị giá 11.941.400 đồng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“ 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: …”.

Như vậy, Cáo trạng số 02/CT – VKS - BTU ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo Trần Đông G là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 30/8/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về Tội cướp giật tài sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST chưa chấp hành xong thời gian thử thách lại phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án treo nên khi quyết định hình phạt cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 15 tháng tù về Tội cướp giật tài sản đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 30/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

[7] Về nhân thân: Bị cáo có nghề nghiệp.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu hồng và số tiền 941.400 đồng cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Đinh Văn G; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7, màu trắng cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Trương Thanh T. Anh Đinh Văn G và anh Trương Thành T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 điện thoại di động Oppo màu vàng, 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Đông G, 01 cái ví màu nâu, 01 cục sạc dự phòng màu trắng nhãn hiệu Arun và 01 tai nghe màu trắng hiệu Samsung là tài sản của bị cáo Trần Đông G không liên quan đến hành vi phạm tội Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại tài sản trên cho bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đông G phạm Tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Đông G 15 (Mười lăm) tháng tù về Tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Buộc bị cáo Trần Đông G phải chấp hành 15 (Mười lăm) tháng tù về Tội cướp giật tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 30/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

Tổng hợp hình phạt 15 (Mười lăm) tháng tù về Tội cướp giật tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 30/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ và 15 (Mười lăm) tháng tù về Tội trộm cắp tài sản. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 29/10/2018, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 10/6/2016 đến ngày 04/7/2016 theo Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 30/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

2. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Đông G phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về