Bản án 02/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 122/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Thị T, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1980 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Hoàng Văn N, sinh năm 1948 (đã chết) và con bà Hoàng Thị K, sinh năm 1958; có chồng Lê Thanh H, sinh năm 1976 (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2012; tiền án; tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 03 tháng 4 năm 2009, bị Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 00344 mức phạt 1.500.000 đồng về hành vi vận chuyển hàng hóa Trung Quốc nhập lậu, ngày 11 tháng 6 năm 2009 chấp hành xong.

Ngày 28 tháng 9 năm 2018, bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn khởi tố về tội vận chuyển hàng cấm theo quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự, ngày 23 tháng 11 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc xử phạt 15 tháng tù (được trừ 03 ngày tạm giữ) về tội vận chuyển hàng cấm quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự tại bản án số 87/2018/HS-ST; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 07 tháng 10 năm 2018 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị B, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Anh Dương Văn Đ, sinh năm 1972. Địa chỉ: Đường L, quận H, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

Anh Dương Quang N, sinh năm 1998. Địa chỉ: Đường L, quận H, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 07 tháng 10 năm 2018, tại km 86 + 300 Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn D, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với tổ công tác trạm Cảnh sát giao thông T thuộc phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang trên xe ô tô khách biển kiểm soát 29B-001.54 do Dương Văn Đ, sinh năm 1972 điều khiển và Dương Quang N, sinh năm 1998 cùng trú tại đường L, quận H, thành phố Hà Nội làm phụ xe đi hướng Lạng Sơn - Hà Nội có vận chuyển pháo nổ. Kiểm tra phát hiện trên sàn xe tại vị trí phía sau hàng ghế cuối có 02 túi bạt, gồm có 01 túi màu đỏ bên trong có 05 túi nilon màu đen, trong đó 03 túi lồng vào nhau, 02 túi riêng lẻ, trong mỗi túi đựng 02 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp, kích thước mỗi hộp 14,5cm x 14,5cm x 15cm; 01 túi màu hồng bên trong có 03 túi nilon trong đó 02 túi lồng vào nhau, một túi riêng lẻ, trong mỗi túi đựng 02 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp, kích thước mỗi hộp 14,5cm x 14,5cm x 15cm. Tổng số pháo thu giữ gồm 10 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp có tổng trọng lượng 13,9 kg (đã trừ bì). Hoàng Thị T là hành khách đi trên xe khai nhận toàn bộ số pháo trên là của Hoàng Thị T mua tại xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn cho Hoàng Kiều L, sinh năm 1996 ở huyện L, tỉnh Bắc Giang sử dụng. Công an huyện Hữu Lũng đã lập biên bản phạm tội quả tang đối với Hoàng Thị T, thu giữ toàn bộ số pháo cùng vật chứng liên quan.

Quá trình điều tra làm rõ: Hoàng Thị T khai nhận có quen biết với một người phụ nữ tên Hoàng Kiều L, sinh năm 1996, trú tại huyện L, tỉnh Bắc Giang (Hoàng Thị T không rõ địa chỉ cụ thể của Hoàng Kiều L). Khoảng đầu tháng 10 năm 2018, Hoàng Kiều L đến mời Hoàng Thị T dự đám cưới của Hoàng Kiều L và đưa cho Hoàng Thị T 1.000.000 đồng nhờ mua pháo cho Hoàng Kiều L đốt trong ngày cưới, Hoàng Thị T đồng ý và cầm số tiền Hoàng Kiều L đưa cho. Sau đó Hoàng Thị T gặp một người đàn ông không quen biết hỏi mua pháo thì được người này đồng ý, Hoàng Thị T đưa số tiền 1.000.000 đồng cho người đàn ông trên. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06 tháng 10 năm 2018, Hoàng Thị T đang ở quán của Hoàng Thị B, sinh năm 1976, trú tại thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn là chị kết nghĩa với Hoàng Thị T thì người đàn ông được Hoàng Thị T nhờ mua pháo mang 02 túi bạt, bên trong đựng pháo đến giao cho Hoàng Thị T.

Sau khi nhận pháo, Hoàng Thị T cất vào trong gian bán hàng của quán rồi đi về. Khoảng 13 giờ ngày 07 tháng 10 năm 2018, Hoàng Thị T đến quán bán hàng của Hoàng Thị B, lấy 02 túi bạt đựng pháo ra Quốc lộ 1A đi xe ô tô khách biển kiểm soát 29B-001.54 do anh Dương Văn Đ điều khiển để vận chuyển pháo cho Hoàng Kiều L. Khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến km 86 + 300 Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn D, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang.

Về vật chứng: Đã làm rõ liên quan đến việc phạm tội của bị cáo gồm toàn bộ số pháo thu giữ khi bắt quả tang là của Hoàng Thị T mua của một người đàn ông không quen biết tại xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 30 tháng 11 năm 2018 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã tiến hành tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ thu giữ của Hoàng Thị T theo quy định.

Các vật chứng, tài sản còn lại hiện đang tạm giữ có liên quan đến việc phạm tội của bị cáo gồm 02 túi bạt, 08 túi nilon là dụng cụ Hoàng Thị T cất giấu pháo nổ. Tài sản không liên quan đến việc phạm tội có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số IMEI 358980094936987, lắp sim số 0337429634 của Hoàng Thị T sử dụng hàng ngày.

Tại bản kết luận giám định số 22/KL-PC09 ngày 09 tháng 10 năm 2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận các mẫu vật (pháo thu giữ của Hoàng Thị T) gửi giám định đều có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây tiếng nổ.

Tại bản Cáo trạng số: 02/CT-VKSHL-HS ngày 20 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng đã truy tố bị cáo Hoàng Thị T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Hoàng Thị T giữ nguyên lời khai như tại cơ quan điều tra và khẳng định bị cáo bị truy tố, xét xử về tội vận chuyển hàng cấm là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử, về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 38, 50, 56 Bộ luật Hình sự. Xử bị cáo Hoàng Thị T từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 15 tháng tù (được trừ 03 ngày tạm giữ) của bản án hình sự sơ thẩm số 87/2018/HSST ngày 23 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 02 túi bạt, trong đó có 01 túi bạt màu đỏ, đã cũ và 01 túi bạt màu hồng, đã cũ, 08 túi nilon màu đen, đã cũ rách là những dụng cụ bị cáo Hoàng Thị T cất giấu pháo nổ có liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Hoàng Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã cũ, số IMEI 358980094936987, trong có sim số 0337429634 là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội.

Phần tranh luận: Không ai có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo Hoàng Thị T xin được giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Hoàng Thị B; người làm chứng gồm anh Dương Văn Đ và anh Dương Quang N đều vắng mặt không có lí do. Nhưng trước đó đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng không ảnh hưởng đến phiên tòa hôm nay nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 các Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Thị T đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06 tháng 10 năm 2018, tại thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Hoàng Thị T mua của một người đàn ông không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ 10 hộp pháo loại pháo dàn 36 quả/hộp có tổng trọng lượng 13,9kg (đã trừ bì). Khoảng 13 giờ ngày 07 tháng 10 năm 2018, Hoàng Thị T đi xe ô tô khách biển kiểm soát 29B-001.54 do anh Dương Văn Đ điều khiển vận chuyển toàn bộ số pháo đã mua đến ngã tư thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến km 86 + 300 Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn D, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang. Toàn bộ 13,9kg pháo thu giữ của Hoàng Thị T được giám định, kết luận có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây tiếng nổ. Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hoàng Thị T phạm tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

[3] Cáo trạng số: 02/CT-VKSHL-HS ngày 20 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng đã truy tố bị cáo Hoàng Thị T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Thị T nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về pháo nổ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi vận chuyển pháo nổ là trái pháp luật và tác hại của pháo nổ đối với bản thân con người, đối với mọi mặt của đời sống xã hội nhưng vì coi thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Trước đó bị cáo đa bị xét xử cùng về tội vận chuyển hàng cấm nhưng không lây lam bai hoc cho ban thân lai tiêp tuc thư c hiên hanh vi pham tôi . Hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Hoàng Thị T có nhân thân không tốt, ngày 03 tháng 4 năm 2009 bị xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi vận chuyển hàng hóa Trung Quốc nhập lậu, ngày 11 tháng 6 năm 2009 chấp hành xong. Ngày 23 tháng 11 năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ về tội vận chuyển hàng cấm theo bản án hình sự sơ thẩm số 87/2018/HS-ST.

[7] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[8] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Hoàng Thị T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo Hoàng Thị T ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[10] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Hoàng Thị T không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành án, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[11] Việc bị cáo Hoàng Thị T khai nhận, địa điểm gặp Hoàng Kiều L và người đàn ông để trao đổi về việc mua pháo và giao nhận pháo nổ là tại quán bán hàng của chị Hoàng Thị B. Tuy nhiên chị Hoàng Thị B không biết việc này. Hoàng Kiều L là người giao cám và người đàn ông bán pháo cho bị cáo là người giao bia cho quán của chị Hoàng Thị B. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã tiến hành lấy lời khai, đối chất giữa bị cáo và chị Hoàng Thị B. Kết quả chị Hoàng Thị B khai nhận không có ai là Hoàng Kiều L giao cám cho quán của chị Hoàng Thị B. Chị Hoàng Thị B có nhận giao bia Hà Nội của một người đàn ông tên là C nhưng từ tháng 9 năm 2018 đã không lấy bia của C nữa. Hoàng Thị T không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông bán pháo cho bị cáo; không biết địa chỉ cụ thể của Hoàng Kiều L do đó không có cơ sở điều tra làm rõ nên không đề cập xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cần tịch thu, tiêu hủy 02 túi bạt, trong đó có 01 túi bạt màu đỏ, đã cũ và 01 túi bạt màu hồng, đã cũ, 08 túi nilon màu đen, đã cũ rách là những dụng cụ bị cáo Hoàng Thị T cất giấu pháo nổ có liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng; trả lại cho bị cáo Hoàng Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã cũ, số IMEI 358980094936987, trong có sim số 0337429634 là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ.

[13] Đối với toàn bộ số pháo thu giữ khi bắt quả tang là của Hoàng Thị T mua của một người đàn ông không quen biết tại xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 30 tháng 11 năm 2018 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tiến hành tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ thu giữ của Hoàng Thị T là đúng quy định pháp luật.

[14] Về án phí: Bị cáo Hoàng Thị T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[15] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191, điểm a khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 38, 50, 56 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Thị T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 07 tháng 10 năm 2018. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù (được trừ 03 ngày tạm giữ) về tội Vận chuyển hàng cấm của bản án hình sự sơ thẩm số 87/2018/HS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Buộc bị cáo Hoàng Thị T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (hai) năm 08 (tám) tháng 27 (hai bẩy) ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07 tháng 10 năm 2018.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 02 túi bạt, trong đó có 01 túi bạt màu đỏ, đã cũ và 01 túi bạt màu hồng, đã cũ; 08 túi nilon màu đen, đã cũ rách.

Trả lại cho bị cáo Hoàng Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã cũ, số IMEI 358980094936987, trong có sim số 0337429634. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21 tháng 12 năm 2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn).

5. Về án phí: Bị cáo Hoàng Thị T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về