Bản án 02/2019/HS-ST ngày 07/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 07/01/2019 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 07 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 116/2018/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2018/QĐXXST-HS ngày17 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Trường V, sinh năm 1983 tại Bạc Liêu; giới tính: Nam; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: ấp NT, thị trấn CH, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Tài xế; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Lê Văn Đ, sinh năm 1935 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1939; Anh, chị em ruột: 06 người; Vợ: Nguyễn Thị Minh H, sinh năm 1983; Con: 02 người; Tiền sự, tiền án: Không; Bị bắt tạm giam ngày 16/9/2018 đến ngày 02/11/2018 cho bảo lĩnh tại ngoại đến nay (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Khánh H, sinh năm 1998 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại:

+ Nguyễn Văn V1, sinh năm 1969.

+ Trần Bé N, sinh năm 1970.

Người đại diện theo ủy quyền của ông V1 và bà Năm: Anh Nguyễn Duy K, sinh năm 1988 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp A, xã KBĐ, huyện TVT, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Ngô Văn H1, sinh năm 1987 (có mặt).

+ Lâm Ngọc X, sinh năm 1968 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp D, thị trấn PL, huyện TT, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Trường V là tài xế chở trái cây thuê cho Ngô Văn H1 ở ấp D, thị trấn PL, huyện TT, tỉnh Sóc Trăng. Khoảng 00 giờ ngày 10 tháng 9 năm 2018, H1 giao xe tải biển kiểm soát 83C-057… cho Lê Trường V điều khiển đi cùng Nguyễn Quốc Đ làm phụ xe chở trái cây từ chợ Cầu Xáng thuộc phường 1, thành phố Bạc Liêu đến chợ Rạch Ráng thuộc huyện Trần Văn Thời để giao trái cây.

Khoảng 03 giờ 40 phút cùng ngày, sau khi giao trái cây ở chợ Rạch Ráng xong thì Lê Trường V tiếp tục điều khiển xe quay về Bạc Liêu. Khi đến đoạn lộ thuộc ấp TT, xã KBĐ, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thì V phát hiện 01 xe mô tô hiệu Honda, biển kiểm soát 55Y5-12…. do Nguyễn Khánh H điều khiển đi theo hướng ngược lại nhưng ở bên phần đường của V đang đi, cách xe V khoảng 100m. Do thấy 02 xe có khả năng va chạm với nhau nên V cốp pha 01 lần rồi cốp đèn chiếu sáng xuống và nhìn vào ánh đèn lúc cốp mà điều khiển xe không quan sát về phía trước, V nghĩ H sẽ điều khiển xe về phần đường của H nên không giảm tốc độ, điều khiển xe không về hết phần đường của mình đang đi nên đã va chạm với xe của H làm H ngã xuống đường tử vong tại chỗ. Sau khi gây tai nạn, V không dừng xe lại kiểm tra mà bỏ mặc nạn nhân H rồi điều khiển xe về Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ Isuzu Cẩm Phong thuộc ấp PH, xã AH, huyện CT, tỉnh Sóc Trăng để sửa chữa xe.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 10/9/2018 tại ấp TC, xã KBĐ, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hiện trường tai nạn xảy ra trên tuyến lộ nhựa tuyến Tắc Thủ - Sông Đốc, lộ rộng 5m50, nơi xảy ra tai nạn là lộ thẳng, tầm nhìn không bị hạn chế.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 154-GĐPY/2018 ngày 13/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cà Mau kết luận đối với Nguyễn Khánh H như sau:

Trán xuống đầu trong mắt trái vết rách da lộ hộp sọ ra ngoài. Máu tụ dưới da đầu ở vùng trán.

Nứt vỡ hộp sọ ở trán trái và hốc mắt trái phức tạp lún sâu vào trong, lộ cả tổ chức não ra ngoài.

Mặt trước đùi trái vết rách da cơ lộ cả xương đùi ra ngoài, gãy vỡ thành nhiều mãnh làm đứt động mạch đùi trái.

Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não hở/ Gãy vở xương đùi và đứt động mạch đùi trái. Biên bản khám nghiệm phương tiện xe mô tô, biển kiểm soát 55Y5-12… do Nguyễn Khánh H điều khiển thể hiện:

Phần đầu: Gương chiếu hậu phải, trái không có, bộ đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu xi nhal phải trái, đồng hồ tốc độ bị hư hỏng hoàn toàn; nút còi, nút mở đèn tín hiệu xi nhal, nút mở đèn chiếu xa bị hư hỏng.

Đầu tay lái bên trái bị gãy mất phần đầu và có dính nhiều chất bùn, lá cây (lá chuối khô).

Gỗ xe màu đen trước đầu xe bị biến dạng (móp).

Mỏ vè trước có nhiều vết trầy xước và dính bùn đất kích thước 8 x10cm; vè chắn bùn bánh trước bị bể kích thước 6 x 26cm.

Phuột trước bị biến dạng (cong) và lệch qua trái; thanh phuột bên trái bị gãy. Dây báo đồng hồ tốc độ bị đứt.

Mâm trước, câm bánh trước có dính nhiều chất nhờn màu đen (giống như nhớt xe).

Chụp gió màu đen bên phải bị bể, trầy xước kích thước 10 x 22cm.

Đầu gác chân trước bên phải có vết trầy xước kích thước 3 x5cm và cong về sau.

Co bộ phận giảm thanh bị gãy.

Chụp gió bên trái có vết trầy xước kích thước 8 x 20cm.

Cần số bị biến dạng và cong về sau; gát chân trước bên trái bị biếng dạng cong về sau và mất phần mũ.

Ốp sườn sau bên trái có nhiều vết bể kích thước 3 x 28cm và dính nhiều bùn đất.

Đầu tai lái bên trái đến mặt đất là 1,02m.

Biên bản khám nghiệm phương tiện xe tải, biển kiểm soát 83C-057… do Lê Trường V điều khiển thể hiện:

Kiếng đèn sương mù, đèn xi nhal trước bên trái bị bể, kích thước 2 x 4cm và cách mặt đất 1,04m (vết số 1).

Vị trí bể trên kiếng đèn sương mù cách về sau 8,5cm có 01 vết trầy sơn và biếng dạng (móp) kích thước 1 x 5cm (vết số 2).

Từ vết thứ 2 cách về sau 8,5cm có 01 vết trầy sơn trên cửa lên xuống màu xanh, kích thước 1 x 65cm (vết số 3).

Không có phần mũ ốp thanh gương chiếu hậu bên trái; thanh gương chiếu hậu (bằng kim loại) bị biếng dạng (móp, méo); phần gương chiếu hậu trái bị thay đổi, sữa chữa.

Phía ngoài bánh lốp trước bên trái có vết trầy xước trơn trược kích thước 10,5 x 15cm

Mâm ngoài bánh lốp trước bên trái có vết trầy xước trơn trượt, kích thước 6 x 18cm.

Bửng chắn bùn phía trên bánh trước bên trái có vết trầy xước sơn kích thước 1,5 x 6cm.

Góc thùng xe phía trước, bên trái và phía dưới có vết trầy xước kích thước 4 x 10cm; đầu góc có vết móp (biếng dạng) kích thước 0,5 x 2cm.

Đầu thanh cảng trên trước bên trái có nhiều vết trầy xước sơn kích thước 7 x 10cm.

Thanh cảng dưới bên trái có nhiều vết trầy xước và dính sơn màu đen kích thước 6 x 2,18cm.

Mặt ngoài bánh lốp sau bên trái có nhiều vết trầy xước trơn trược hình vòng cung kích thước 14 x 60cm.

Đầu vết số 3 và đuôi vết số 3 cách mặt đất lần lượt là 1,04m và 1,0m; khoảng cách từ gương chiếu hậu bên trái qua gương chiếu hậu bên phải là 2,45m; chiều dài thùng xe là 5,58m; chiều dài xe là 7,6m; khoảng cách giữa tâm trước và tâm sau xe là 4,2m; thùng xe có chiều ngang là 2,24m.

Hành vi của Lê Trường V đã vi phạm khoản 17 Điều 8; khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ và vi phạm khoản 8 Điều 5 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoản cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Khoản 17 Điều 8 quy định như sau: “Bỏ trốn sau khi gây tai nạn để trốn tránh trách nhiệm”.

Khoản 1 Điều 17 quy định như sau: “Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi ngược chiều tránh nhau, người điều khiển phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình”.

Khoản 8 Điều 5 Thông tư số 91 ngày 31/12/2015 quy định: Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp sau: Tránh xe chạy ngược chiều hoặc khi cho xe chạy sau vượt.

Tại bản cáo trạng số 115/CT-VKS ngày 23/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời truy tố bị cáo V về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

* Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Giữ y quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng do không còn giá trị sử dụng. Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị hại và bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong nên không đặt ra xem xét.

- Bị cáo xác định Cáo trạng truy tố là đúng hành vi phạm tội của bị cáo và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

- Anh K không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự cũng như thiệt hại về tinh thần vì thỏa thuận bị cáo nộp khắc phục xong 150.000.000 đồng và yêu cầu Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

- Anh H1 không yêu cầu bồi thường gì trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trần Văn Thời, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo V thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, những người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa, đã chứng minh: Khoảng 03 giờ 40 phút ngày 10/9/2018, sau khi giao trái cây ở chợ Rạch Ráng xong thì Lê Trường V điều khiển xe tải biển kiểm soát 83C-057… quay về Bạc Liêu. Khi đến đoạn lộ thuộc ấp TC, xã KBĐ, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thì V phát hiện 01 xe mô tô biển kiểm soát 55Y5-12… do Nguyễn Khánh H điều khiển đi theo hướng ngược lại bên phần đường của V đang đi, cách xe V khoảng 100m. V không giảm tốc độ và không cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình nên gây tai nạn làm anh H tử vong tại chỗ, nguyên nhân chết do chấn thương sọ não hở, gãy vở xương đùi và đứt động mạch đùi trái. Sau khi gây tai nạn V điều khiển xe bỏ trốn để trốn tránh trách nhiệm.

[3] Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào khoản 17 Điều 8; khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ và vi phạm khoản 8 Điều 5 Thông tư số 91 ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoản cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Do đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm vào tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

[4] Hiện nay, tình trạng người tham gia giao thông không tuân thủ quy định pháp luật về an toàn giao thông vẫn thường xảy ra, mặc dù các cơ quan chức năng tăng cường tuần tra, kiểm soát xử lý, tuyên truyền, giáo dục, nhắc nhỡ nhưng vẫn còn một số người chưa có ý thức chấp hành tốt quy định của pháp luật khi tham gia giao thông. Đã có không ít trường hợp gây tai nạn nghiêm trọng, làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, để lại hậu quả đau thương cho gia đình người bị hại, trong số đó có bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm về trật tự an toàn giao thông mà còn gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời mang tính răng đe và phòng ngừa chung cho xã hội, nhằm lập lại trật tự an toàn giao thông trong tình hình hiện nay.

[5] Song, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã khắc phục toàn bộ hậu quả cho gia đình bị hại số tiền 150.000.000đồng; bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và là lao động chính trong gia đình đang nuôi dưỡng cha mẹ già và 02 con còn nhỏ; được người đại diện cho bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo. Mặt khác, bị cáo phạm tội do vô ý và bị hại H cũng có một phần lỗi là khi gặp xe chạy ngược chiều nhưng không giảm tốc độ, không cho xe đi về bên phải theo chiều đi của mình là vi phạm khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ. Do bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt là có cơ sở.

[6] Xét yêu cầu của bị cáo và người đại diện hợp pháp cho bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo thì thấy rằng: Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trên, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và sau khi gây tai nạn bị cáo điều khiển xe khỏi hiện trường vụ án, gây khó khăn cho công tác điều tra, gây dư luận xấu tại địa phương. Do đó, đề nghị về hình phạt của Kiểm sát viên là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử không xem xét cho bị cáo được hưởng án treo, mà cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo nhằm răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội là cần thiết.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo có nghề nghiệp duy nhất là tài xế và là lao động chính trong gia đình như nhận định trên. Do đó, không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung cấm bị cáo điều khiển xe ô tô theo khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự là có cơ sở.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa người đại diện cho bị hại xác định bị cáo đã bồi thường xong tất cả các chi phí, các thiệt hại bằng 150.000.000 đồng nên không yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác, không yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết là phù hợp.

[9] Đối với việc bị cáo điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 83C-057…. của anh H1, chị X bị tai nạn gây hư hỏng, bị cáo và anh H1, chị X tự thỏa thuận thương lượng với nhau nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Nếu giữa bị cáo và anh H1, chị X không thỏa thuận được với nhau thì có quyền khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác là phù hợp.

[10] Về xử lý vật chứng: Xét thấy các vật chứng theo bút lục 226 không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp theo quy định tại khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Trường V phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".

Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Trường V 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được đối trừ thời gian tạm giam từ ngày 16/9/2018 đến ngày 02/11/2018.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ đèn lái sau bị vỡ mất bóng đèn nhal; 02 kính chiếu hậu bị vỡ mất 02 mặt gương chỉ còn đế nhựa màu đen; 01 chiếc dép nhựa màu trắng; 01 mãnh nhựa màu vàng; 01 gương chiếu hậu kích thước 9 cm x 17cm trên mãnh nhựa có ghi E13 021457700WA; 01 mãnh nhựa màu đen kích thước 23cm x 14cm; 01 nón bảo hiểm. Hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời đang quản lý - BL: 226).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo V phải chịu 200.000 đồng.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai báo cho bị cáo V, người đại diện hợp pháp cho bị hại, anh H1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị X có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 07/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về