Bản án 02/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 18/01/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 18 tháng 01 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2018 theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Khắc H –Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 30/9/1991, tại huyện N, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Ứ, huyện N, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Khắc L, sinh năm 1966 và bà Vũ Thị L, sinh năm 1970 – trú tại Thôn Đ, xã Ứ, huyện N, tỉnh Hải Dương; vợ, con; Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”.

Hiện đang tại ngoại tại xã Ứng Hòe, huyện N, tỉnh Hải Dương - Có mặt.

- Nguyên đơn dân sự: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T.

Địa chỉ: Phường T, thành phố L, tỉnh Lai Châu.

- Đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự: Ông Trần Mường T – Chức vụ: Giám đốc công ty.

- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự: Ông Lê Văn D – Cán bộ công ty TNHH một thành viên Thế Anh Lai Châu.

Địa chỉ: Tổ 18, Phường T, thành phố L, tỉnh Lai Châu (theo giấy ủy quyền ngày 25/7/2017). Vắng mặt.

- Bị đơn dân sự: Anh Nguyễn Thế Đ, sinh năm 1982

Trú tại: Thôn Đ, xã Ứ, huyện N, tỉnh Hải Dương.

(Đã có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Những người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Đình O, sinh năm 1974. Có mặt. Trú tại: Khu 10, xã V, huyện C, tỉnh Phú Thọ

+ Anh Nguyễn Chí H, sinh năm 1994. Vắng mặt

Trú tại: Khu 13, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

+ Anh Nguyễn Quang V, sinh năm 1969. Vắng mặt

Trú tại: Khu 13, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

+ Anh Nguyễn Hữu N, sinh năm 1980. Vắng mặt

Trú tại: Khu 11, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn b iến tại phiên toà, nội dụng vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 20/7/2017 Bùi Khắc H là người có giấy phép lái xe ô tô theo qui đ ịnh điều khiển xe ô tô nhãn hiệu CHENGLONG mang biển kiểm soát 34C-093.78 đi từ huyện N, tỉnh Hải Dương đến huyện G, Thành phố Hà Nội để lấy hàng là vỏ hộp bìa cát tông. Cùng trên xe do  H điều khiển có anh Nguyễn Thế Đ, sinh năm 1982 là chủ xe. Sau khi bốc hàng xong H điều khiển xe đi Lào Cai giao hàng theo đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đến khoảng 23 giờ cùng ngày khi đến km 114 + 300 thuộc địa phận thôn Đ, xã M, huyện T, tỉnh Yên Bái đã không làm chủ tốc độ và không giữ khoảng cách an toàn với phương tiện chạy  cùng  chiều  đâm  va  vào  phía  sau  phân  đuôi xe  ô  tô  khách  nhãn  hiệu TRAMECO mang b iển kiểm soát 25B-001.27 đ i phía trước cùng chiều, cùng làn đường bên phải của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T, có trụ sở tại Phường T, thành phố L, tỉnh Lai Châu do anh Nguyễn Đình O, sinh năm 1974, trú tại xã V, huyện C, tỉnh Phú Thọ điều khiển, trên xe còn có Nguyễn Quang V, sinh năm 1969 là lái phụ, hai phụ xe là Nguyễn Chí H, sinh năm 1994, Nguyễn Hữu N, sinh năm 1980, đều trú tại xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ và 22 hành khách. Hậu quả của vụ tai nạn:

Về người: Bùi Khắc H bị thương nặng phải cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Yên Bái,  Bệnh viện  Việt Đức – Hà Nộ i và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương,  tại bản kết  luận  giám  định  pháp  y  về  thương  tích số  103/TgT  ngày12/12/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Yên Bái kết luận tỷ lệ tổnthương cơ thể của Bùi Khắc H tại thời điểm giám định là 58% . Anh Nguyễn Thế Đ bị xây xước từ chối không giám đ ịnh thương tích, toàn bộ những người trên xe khách không bị thương tích gì .

Về tài sản: Hai xe ô tô bị hư hỏng nặng. Tại biên bản xác định giá trị thiệt hại và giá trị còn lại của xe ô tô ngày 04/8/2017 của Hộ i đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T đã xác định giá trị thiệt hại do tại nạn giao thông của xe ô tô  khách  nhãn   hiệu   TRAMECO   mang   b iển   kiểm   soát   25B-001.27  là 1.353.000.000đồng (Một tỷ ba trăm năm mươi ba triệu đồng).

Vật chứng vụ án: Xe ô tô tải CHENGLONG mang b iểm kiểm soát 34C -093.78 và xe ô tô khách nhãn hiệu TRAMECO mang b iển kiểm soát 25B-001.27.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Thế  Đ  là chủ phương tiện xe ô  tô CHENGLONG mang biểm kiểm soát 34C-093.78 đã tự nguyện bồi thường cho đại diện xe ô tô khách là anh Lê Văn D số tiền là 200.000.000đồng. Bùi Khắc H đã hỗ trợ cho chủ xe tải anh Nguyễn Thế Đ số tiền là 60.000.000đồng. Nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 04/KSĐT-TA ngày 08 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Bùi Khắc H về tội "Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ” theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ quyền công tố luận tộ i và tranh luận: giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Bùi Khắc H, đề N  Hộ i đồng xét xử tuyên bố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; đ iểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo 03 năm tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn đ ịnh thời gian thử thách; Không áp dụng hình phạt bổ sung; Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra; Về vật chứng: Đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp; Về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà bị cáo Bùi Khắc H đã khai báo thành khẩn, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân và không tranh luận gì với bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị hiện tại bị cáo bị thương nặng còn phải điều trị, bị cáo đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương để bị cáo có điều kiện chữa bệnh để phục hồi sức khỏe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan đ iều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết đ ịnh tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn giao thông và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ, ngày 20/7/2017, tại km 114 + 300 đường Cao tốc Nội Bài – Lào Cai thuộc thôn Đ, xã M, huyện T, tỉnh Yên Bái Bùi Khắc H có giấy phép lái xe ô tô theo quy đ ịnh điều khiển xe ô tô tải mang b iểm kiểm soát 34C-093.78 đã không làm chủ tốc độ xe, không giữ khoảng cách an toàn với phươngtiện chạy cùng chiều đã đâm vào xe ô tô khách mang b iển kiểm soát 25B-001.27 của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T làm bị cáo bị tổn thương cơ thể và hai xe ô tô bị hư hỏng nặng.

Bùi Khắc H là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thấy được khả năng nguy hiểm trong hành vi của mình khi tham gia giao thông đã vi phạm khoản 1Điều 12 của Luật giao thông đường bộ. Hành vi của b ị cáo là vô ý, nhưng hậu quả không mong muốn đã xảy ra là chính bản thân bị cáo bị tổn thương cơ thể là 58% và thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô khách mang biển kiểm soát 25B-001.27 của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T là 1.353.000.000đồng. Vì vậy, Bùi Khắc H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy đ ịnh về đ iều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại điểm đ khoản 2 Đ iều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999. Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Bùi Khắc H về tội “Vi phạm quy đ ịnh về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại điểm đ khoản 2 Đ iều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo cùng gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả; nguyên đơn dân sự  xin giảm hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy Đ tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Từ những nhận định trên có thể phạt b ị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt là thỏa đáng, đủ điều kiện để giáo dục bị cáo thành người lương thiện, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm nó i chung. Tuy nhiên, bị cáo bị tổn thương cơ thể 58% chưa được phục hồi và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hộ i, mà tạo điều kiện cho bị cáo chữa bệnh, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hộ i bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân xã nơi bị cáo cư trú và gia đình bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự không yêu cầu bồi thường gì thêm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: Xe ô tô tải CHENGLONG  mang b iểm kiểm soát 34C -093.78,  xe ô tô khách nhãn hiệu TRAMECO mang biển kiểm soát 25B -001.27 vàcác giấy tờ kèm theo đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 202, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự   2015;   khoản   1   Điều   21,   đ iểm   a   khoản   1   Đ iều   23   N   quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016   Quy định về mức thu, giảm, miễn, thu,nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Khắc H phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

2. Về hình phạt: Xử phạt b ị cáo Bùi Khắc H 03(ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian t hử thách 05 (năm) kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ( 18-01-2018).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ứ, huyện N, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo thường trú giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theoquy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự

3. Về án phí: Bị cáo Bùi Khắc H phải chịu 200. 000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trạm Tấu - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về