Bản án 02/2018/HSST ngày 18/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 02/2018/HSST NGÀY 18/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 226/2017/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXXST-HS ngày 04/01/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh ngày Y tháng Z năm 199X tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn X, xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị D; có vợ là Lê Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Không có tiền án, tiền sự đã được xóa; bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2017 tại Trại tạm giam thành phố Hà Nội. (Có mặt)

Bị hại: Anh Lê Ngọc T, sinh năm 199Y; nơi cư trú: Thôn N, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội (Đề nghị xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/8/2017 khi cùng chơi Game tại thôn V, xã V1, huyện Đ, thành phố Hà Nội, H quen biết anh Nguyễn Hữu C (sinh năm 198Z; nơi cư trú: Thôn N, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội). Ngày 17/8/2017, H xin anh C cho ở nhờ tại nhà, anh C đồng ý cho H ở tầng 3. Ngày 18/8/2017, anh C đi làm, H đi chơi điện tử. Khoảng 20h00 cùng ngày H quay về nhà,  vợ anh C là chị Phạm Thị H (sinh năm 198N) mở cổng cho H vào nhà rồi đi làm luôn. H vào trong nhà không thấy có người, phát hiện bộ máy vi tính của anh Lê Ngọc T – người thuê nhà của anh C để tại tầng 1 đã nảy sinh ý định trộm cắp CPU máy tính bán lấy tiền tiêu sài. H mở máy tính truy cập Internet tìm người mua bất kỳ rồi sử dụng điện thoại di động số thuê bao 0913438... để liên lạc, giao dịch mua bán. H liên lạc được với một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ) trao đổi thông số kỹ thuật của cây máy tính và thỏa thuận giá bán, mua. Sau đó H và người đàn ông hẹn gặp xem máy tính và giao tiền tại vòng xuyến đường H, phường V, quận B, thành phố Hà Nội. Sau khi liên lạc với người đàn ông mua máy tính, H tháo rời và mang CPU máy vi tính của anh T ra điểm hẹn. H đã bán CPU máy vi tính của anh T cho người đàn ông đó với giá 3.500.000 đồng, rồi cầm tiền bắt xe ô tô khách vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 31/10/2017, Nguyễn Văn H đến Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra tạm giữ của anh Lê Ngọc T: 01 USB chứa video Nguyễn Văn H trộm cắp CPU máy tính của anh T vào tối ngày 18/8/2017.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 490/HĐ ĐGTS ngày 05/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Đông Anh kết luận: 01 cây máy tính gồm các bộ phận: 01 main giaga B75d3v, 01 HD D250Gb, 01 Ram III 8GB/1600, 01 nguồn 400W, 01 CPU Intel core i5 3470, 01 VGA Asus gtx650 1gd5, 01 vỏ case Golden Field chống bức xạ, tổng trị giá 4.400.000 đồng.

Đối với người nam giới liên lạc và mua CPU máy vi tính do H trộm cắp, H không biết lai lịch, không nhớ đặc điểm nhận dạng, không nhớ số điện thoại liên lạc nên Cơ quan điều tra không làm rõ được và không thu giữ được CPU máy vi tính.

Đối với chiếc điện thoại và sim số thuê bao 091343663 mà Nguyễn Văn H sử dụng gọi điện thỏa thuận bán CPU máy tính trộm cắp, H trình bày đã bán lấy tiền tiêu sài trong quá trình lẩn trốn ở Thành phố Hồ Chí Minh, không nhớ địa điểm và người mua nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Đối với chiếc USB chứa video Nguyễn Văn H trộm cắp CPU máy vi tính của anh T tối ngày 18/8/2017 có giá trị chứng minh tội phạm, anh T không đề nghị lấy lại, Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ chuyển Tòa án xử lý theo quy định.

Anh Lê Ngọc T đề nghị Nguyễn Văn H bồi thường số tiền 4.400.000 đồng và xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Nguyễn Văn H.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 21/12/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh truy tố Nguyễn Văn H về tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải nên đề nghị người thân có mặt tại phiên tòa khắc phục hậu quả thay cho bị cáo; người thân của Nguyễn Văn H đã nộp số tiền 1.500.000đ tại Biên lai thu tiền số 18/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ nguyên cáo trạng, xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường, đầu thú, người bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng không có nơi cư trú rõ ràng nên cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 138; các điểm b, h, p khoản 1 và Khoản 2, Khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự 1999 để xử phạt bị cáo từ 04 đến 06 tháng tù; chiếc USB không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy; buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, căn cứ vào hình ảnh trích xuất từ chiếc USB do anh Lê Ngọc T giao nộp lưu giữ hình ảnh trộm cắp của Nguyễn Văn H cùng lời khai của anh Lê Ngọc T, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 18/8/2017, tại nhà riêng của anh Nguyễn Hữu C ở Thôn N, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Văn H có hành vi trộm cắp 01 CPU máy vi tính hiệu Asus trị giá 4.400.000 đồng của anh Lê Ngọc T để tại diện tích thuê của anh C tại tầng 1.

[2] Hành vi trên của bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Nội dung điều luật quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh truy tố bị cáo tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa bàn huyện Đông Anh. Bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ tự nguyện bồi thường, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú và bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo vẫn có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng nhưng xét bị cáo phạm tội lần đầu nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Tài sản bị chiếm đoạt không thu hồi được, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên bị cáo phải bồi thường toàn bộ giá trị tài sản bị chiếm đoạt theo kết quả định giá. Ghi nhận tại phiên tòa, gia đình bị cáo đã thay bị cáo nộp số tiền 1.500.000đ tại Biên lai thu tiền số 18/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền là 2.900.000đ.

[6] Chiếc USB chứa hình ảnh Nguyễn Văn H trộm cắp có giá trị chứng minh tội phạm do anh Lê Ngọc T giao nộp nhưng không đề nghị nhận lại, vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, sung quỹ nhà nước.

[8] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về điều luật áp dụng: Kể từ ngày 01/01/2018, Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung (gọi chung là Bộ luật hình sự năm 2015) có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà hình phạt, tình tiết giảm nhẹ và các quy định khác của Bộ luật hình sự năm 2015 không có lợi cho người phạm tội nên căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành, khi xét xử Tòa án vẫn áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng Khoản 1 Điều 138, các Điểm b, h, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Nguyễn Văn H có trách nhiệm phối hợp với UBND xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo Nguyễn Văn H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng Khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Văn H, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015; buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Lê Ngọc T số tiền là 4.400.000đ (Bốn triệu bốn trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) đã nộp tại Biên lai thu tiền số 3264 ngày 18/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh; bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền là 2.900.000đ (Hai triệu chín trăm nghìn đồng).

Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu, sung quỹ nhà nước 01 chiếc USB nhãn hiệu Kingston theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án . Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HSST ngày 18/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về