TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 02/2018/HSST NGÀY 16/01/2018 VỀ TỘI SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ ĐỂ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 01 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã P Y, tỉnh Vĩnh Phúc. Tòa án nhân dân thị xã P Y xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2017/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXX ST – HS ngày 03/01/2018 đối với bị cáo.
Nguyễn Thị H sinh ngày 22 tháng 4 năm 1983 tại Vĩnh Phúc
Nơi cư trú: Tổ 2, phường T, thị xã P Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thăng L (đã chết) và bà Triệu Thị X ; có chồng Đặng Hùng S và có 03 con lớn sinh năm 2006 nhỏ sinh năm 2016; tiền án,tiền sự: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại tại địa phương “có mặt”.
Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Kim Đ, sinh năm 1993 “vắng mặt”
Nơi cư trú: Thôn Văn L, xã Tam Đ , huyện M L , thành phố Hà Nội
Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Phương T , sinh năm 1998 “vắng mặt”
Nơi cư trú: Thôn Cao S , xã Vĩnh T h, huyện Yên T , tỉnh Nghệ An
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16h30 phút ngày 04.9.2017, Nguyễn Thị H là công nhân của Công ty GS Vina thuộc kho Tùng Chi, có địa chỉ tại phường P T , thị xã P Y, sau khi hết giờ làm việc H đến lán để xe của Công ty để lấy xe ra về. Tại đây H nhặt được 01 chiếc thẻ ATM Vietinbank mang tên chủ thẻ là NGUYEN THỊ KIM DEM, khi đó H biết chiếc thẻ ATM là của chị Nguyễn Thị Kim Đ là bạn làm cùng công ty với H. H nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền trong tài khoản (tài khoản số107866857086) của chị Đ nên đã cất giấu thẻ ATM vào trong cốp xe của mình rồi đi về nhà.
Đến ngày 08/9/2017 sau khi biết công ty đã trả lương cho công nhân qua thẻ ATM nên đến 16h40 phút cùng ngày H cùng với chị Nguyễn Thị Phương T là bạn làm cùng công ty, đến cây ATM trước của Ngân Hàng Vietinbank Phúc Yên thuộc tổ 11, phường T, thị xã P Y để rút tiền. Đến nơi chị T vào trong cây ATM rút tiền của mình, còn H đứng bên ngoài chờ. Sau khi chị T rút tiền xong đi ra ngoài, H cầm thẻ AMT của chị Đ vào bên trong cây ATM để rút tiền. H cho thẻ ATM của chị Đ vào trong cây, khi đó cây ATM yêu cầu nhập mã truy cập tài khoản, do biết trước chị Đ đặt mã truy cập tài khoản thẻ ATM theo ngày tháng và 2 số cuối của năm sinh con chị Đ và biết ngày tháng năm sinh con chị Đ nên H nhập số 040916 nhưng không mở được, H tiếp tục nhập lại theo số 041016 thì mở được tài khoản. Tiếp đó H thao tác rút và chiếm đoạt 5.000.000đ trong tài khoản của chị Đ, thấy trong tài khoản vẫn còn tiền H tiếp tục chiếm đoạt thêm 2.800.000đ. Chiếm đoạt tiền xong H lấy thẻ ATM của chị Đ và hóa đơn rút tiền vứt bỏ ở rìa đường cạnh đó. Số tiền 7.800.000đ trên H đã tiêu sài cá nhân hết.
Đối với chiếc thẻ ATM của chị Đ và hóa đơn rút tiền, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được.
Đối với 7.800.000đ là khoản tiền H đã chiếm đoạt của chị Đ. Sau khi bị phát hiện H đã trả lại cho chị Đ, chị Đ không có đề nghị bồi thường gì thêm.
Đối với chị Nguyễn Thị Phương T không biết H có Hnh vi phạm tội nên không đề cập việc xử lý.
Trong giai đoạn điều tra Nguyễn Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, tự nguyện trả lại cho chị Đ 7.800.000đ, đến nay chị Đ không yêu cầu bồi thường gì khác.
Tại Bản cáo trạng số: 02/KSĐT – TA ngày 18/12/2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P Y đã truy tố Nguyễn Thị H về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện Hnh vi chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 1 Điều 290 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Kiểm sát viên được phân công duy trì công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 290, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt Nguyễn Thị H từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng
Về xử lý vật chứng: Không đặt ra giải quyết
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
[4] Về thủ tục tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã P Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 290; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn Thị H 09 (chín) tháng tù về tội “Sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trong thời gian thử thách Tòa án giao bị cáo H cho UBND phường T, thị xã P Y, tỉnh Vĩnh Phúc để giám sát giáo dục. Trong trường hợp bị cáo H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi Hành án hình sự.
Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Thời hạn kháng cáo bản án là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án 02/2018/HSST ngày 16/01/2018 về tội sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 02/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về