Bản án 02/2018/HS-ST ngày 15/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 15/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2017/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo :

1/Nguyễn Nhật Tr, sinh ngày 25 tháng 02 năm 1995, tạị Tiền Giang. Tên thường gọi: Không.

Nơi cư trú: 28, tổ 1, ấp V, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Nghề nghiệp: Làm thuê.

Trình độ văn hoá (học vấn): 8/12. Dân tộc: Kinh.

Giới tính: Nam.

Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn Th sinh năm: 1960. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1962.

Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 09/11/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho xử phạt 09 tháng nhưng hưởng án treo về tội “ \Không tố giác tội phạm”, thời gian thức thách là 01 năm 6 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ( \bản án số 171/2012/HS- ST ngày 09/11/2012 Nguyễn Nhật Tr đã chấp hành xong ngày 09/5/2014.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 04/10/2017 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Bị hại: Nông Khánh V, sinh năm: 1981( có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: 645, ấp M, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

3/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

3.1/ Nguyễn Huỳnh P, sinh năm; 1989 (có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: 180,Ồ2, khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

3.2/ Phạm Tuấn K, sinh năm:1989 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: 79/6, đường N, phường H,thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

4/Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Võ Văn T, sinh năm: 1991( vắng mặt). Địa chỉ: 216, tố 9, Ấp P, xã P, huyện Ch, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào khoảng 23 giờ ngày 18/7/2017 Nguyễn Nhật Tr đi bộ đến trước nhà số 645, ấp M, xã Đ, thành phố M,Tiền Giang, nhìn thấy phía sau nhà đèn còn sáng nên Nguyễn Nhật Tr nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Đề thực hiện ý định, Tr leo rào vào nhà đi ra phía sau nhà nhìn thấy chị Nông Khánh V, sinh năm 1981, ngụ số 645 ấp M, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang đang cắm sạc chiếc điện thoại hiệu Iphone 6S Phus màu vàng đồng của chị V để trên đầu tủ gỗ đi ngủ. Lúc này Tr dùng tay bẻ đoạn lưới B40 đã bị rỉ sét tạo thành lỗ trống chùi vào trong nhà. Tr nhìn thấy trên đầu tủ phía trong hộp gỗ có chiếc điện thọai di động nêu trên và 01 chiếc Ipad1 mini màu đen bị nứt mặt kính, Tr lấy điện thoại di động bỏ vào túi quần, lấy chiếc Ipad nhét vào quần trước bụng Tr rồi đi về phòng trọ tại số 18, ấp M, xã Đ, thành phố M cất giấu. Đến khoảng 4 giờ sáng ngày 19/7/2017 chị V thức dậy phát hiện bị mất trộm điện thoại di động và Ipad, chị V đến công an xã Đ, thành phố M trình báo.

Sáng ngày 19/7/2017 Tr tháo Sim số 0906831777 của điện thoại di động ném bỏ xuống mương nước gần nhà trọ. Sau đó Tr đi đến gặp Võ Văn T sinh năm 1991, ngụ 216, tổ 9, ấp P, xã P, huyện Ch, tỉnh Tiền Giang thuê nhà trọ tạm trú thuộc khu phố 10, phường S, thành phố M nhờ T tìm chỗ bán điện thoại, thì T dẫn Tr đến gặp anh Nguyễn Huỳnh P sinh năm 1989 ngụ 180, Ồ2, khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang Tr bán điện thoại cho anh P với giá 5.700.000 đồng lấy được tiền Tr tiêu xài cá nhân. Ngày 24/7/2017 Tr đem chiếc Ipad đến cửa hàng điện thoại “Giàu Mobile” địa chỉ số 14 đường L, Phường B, thành phố M bán cho anh Phạm Tuấn K sinh năm 1989 ngụ số 79/6 đường N, phường H, thành phố M với giá 1.000.000 đồng tiêu xài cá nhân. Đến ngày 04/10/2017 Tr bị bắt tạm giam để điều tra.

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đồng.

- 01 Ipad 1mini màu đen nứt mặt kính.

Đối với thẻ sim 0906 831777 Cơ quan điều tra tổ chức truy tìm nhưng không thu hồi được.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 209 ngày 28/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản của thành phố Mỹ Tho kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus màu vàng đồng trị giá 13.800.000 đồng ; 01 Ipad 1 mini màu đen nứt mặt kính trị giá 3.500.000 đồng.

Anh Nguyễn Huỳnh P và anh Phạm Tuấn K khi mua điện thoại và Ipad không biết điện thoại và Ipad do Tr trộm cắp của chị V nên Cơ quan điểu tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh P và anh K về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”

Về trách nhiệm dân sự:

Chị Nông Khánh V đã nhận lại đủ tài sản bị mất trộm 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus màu vàng; 01 Ipad 1 mini màu đen nứt mặt kính và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Anh Nguyễn Huỳnh P yêu cầu bồi thường 5.700.000 đồng tiền bỏ ra mua điện thoại.

Anh Phạm Tuấn K yêu cầu bồi thường 1.000.000 đồng tiền bỏ ra mua Ipad. Nguyễn Nhật Tr đã bồi thường xong cho anh P 5.700.000 đồng, anh K 1.000.000 đồng và anh P, anh K không yêu cầu gì thêm.

Về vật chứng:Theo giấy biên nhận v/v nhận tiền bồi thường dân sự trong vụ án hình sự ngày 04/10/2017 và biên nhận tiền bồi thường ngày 26/7/2017).

Tại bản cáo trạng số 145/QĐ-VKS ngày 30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố M đã truy tố Nguyễn Nhật Tr về tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ Luật hình sự năm 1999

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung 2009; Điểm b,s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Tr từ 09 -12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận người bị hại chị Nông Khánh V đã nhận lại đủ tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường thêm; Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào biên bản về việc trả lại tài sản của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Nhật Tr khai nhận vào khoảng 23 giờ ngày 18/7/2017 bị cáo Nguyễn Nhật Tr đi bộ đến trước nhà số 645, ấp M, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang, nhìn thấy phía sau nhà đèn còn sáng nên Nguyễn Nhật Tr nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Để thực hiện ý định, Tr leo rào vào nhà đi ra phía sau nhà nhìn thấy chị Nông Khánh V, sinh năm 1981, ngụ số 645, ấp M, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang đang cắm sạc chiếc điện thoại hiệu Iphone 6S Phus màu vàng đồng của chị V để trên đầu tủ phía trong hộp gỗ đi ngủ. Lúc này Tr dùng tay bẻ đoạn lưới B40 đã bị rỉ sét tạo thành lỗ trống chùi vào trong nhà. Tr nhìn thấy trên đầu tủ phía trong hộp gỗ có chiếc điện thọai di động Iphone 6S Phus màu vàng đồng và 01 chiếc Ipal1 mini màu đen bị nứt mặt kính, Tr liền lấy điện thoại di động bỏ vào túi quần, lấy chiếc Ipad nhét vào quần trước bụng, Tr đi về phòng trọ tại số 18, ấp M, xã Đ, thành phố M cất giấu. Đến khoảng 4 giờ sáng ngày 19/7/2017 chị V thức dậy phát hiện bị mất trộm điện thoại di động và Ipad, chị Vy đến Công an xã Đ thành phố M trình báo.

Sau khi trộm được tài sản sáng ngày 19/7/2017 bị cáo Tr đi đến nhà thuê trọ của anh Võ Văn T nhờ anh T tìm người mua điện thoại thì anh T giới thiệu cho bị cáo Tr anh Nguyễn Huỳnh P, sau đó anh T chở bị cáoTr đến thị trấn C, huyện C gặp anh P, anh P đồng ý mua điện thoại với giá 5.700.000 đồng, anh T chở bị cáo Tr trở về thành phố M. Ngày 24/7/2017 Tr đem chiếc Ipad đến cửa hàng điện thoại “Giàu mobile” địa chỉ 14, đường L, phường B, thành phố M bán cho anh Phạm Tuấn K sinh năm 1989, ngụ số 79/6 đường N, phường H, thành phố M với giá 1.000.000 đồng.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, do đó đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Nhật Tr phạm tội “ Trộm cắp tài sản” Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xét thấy bị cáo Tr là một thanh niên có sức khỏe nhưng với ý thức lười lao động mà muốn có tiền tiêu xài phung phí bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản do công sức lao động hợp pháp của người khác. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của người khác mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội nơi xảy ra vụ án nên cần phải chịu trách nhiệm hình sự và phải có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi của bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường xong phía bị hại người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt bằng nhau nên áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

[2] Về trách nhiệm dân sự:

- Chị Nông Khánh V đã nhận lại đủ tài sản bị mất gồm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đồng; 01 Ipad 1mini màu đen nứt mặt kính (Theo quyết định xử lý vật chứng số 61 ngày 06 tháng 10 năm 2017 và biên bản về việc trả lại tài sản ngày 06/10/2017 của Cơ quan điều tra Công an thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Anh Nguyễn Huỳnh P nhận lại 5.700.000 đồng tiền mua điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đồng (theo giấy biên nhận v/v nhận tiền bồi thường dân sự trong vụ án hình sự ngày 04/10/2017).

- Anh Phạm Tuấn K đã nhận lại 1.000.000 đồng tiền mua 01 Ipad 1mini màu đen nứt mặt kính (theo biên nhận tiền bồi thường ngày 26/7/2017).

Chị Nông Khánh V, anh Nguyễn Huỳnh P, anh Phạm Tuấn K không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]Về vật chứng:Theo giấy biên nhận v/v nhận tiền bồi thường dân sự trong vụ án hình sự ngày 04/10/2017 và biên nhận tiền bồi thường ngày 26/7/2017). chị V, anh P, anh K không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH khóa 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí TA, buộc bị cáo Nguyễn Nhật Tr phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.

Điều 38; điểm b,s khoản 1 Điều 51; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự va điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTV QH khóa 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí TA, buộc bị cáo Nguyễn Nhật Tr phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nhật Tr phạm tội: “ Trộm cắp tài sản”.

1/ Phạt bị cáo Nguyễn Nhật Tr 09 (chín ) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù được tính từ ngày 04/10/2017, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2/ Vể trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận Chị Nông Khánh V đã nhận lại tài sản gồm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đồng; 01 Ipad 1mini màu đen nứt mặt kính.

- Ghi nhận anh Nguyễn Huỳnh P nhận lại 5.700.000 đồng tiền mua điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đồng.

- Ghi nhận anh Phạm Tuấn K đã nhận lại 1.000.000 đồng tiền mua 01 Ipad 1mini màu đen nứt mặt kính.

3/ Về  án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Nguyễn Nhật Tr phải chịu 200.000 đồng.

4/ Bị cáo có Nguyễn Nhật Tr quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Nông Khánh Vy anh Nguyễn Huỳnh P, anh Phạm Tuấn K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

570
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 15/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về