TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 14/03/2018 VỀ VIỆC MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 14 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2018/TLST- HS ngày 04 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST-HS ngày 26/2/2018 đối với bị cáo:
- Trần Văn D, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1993. Tại xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
Nơi cư trú: Thôn X, xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn K và bà Hoàng Thị T; Có vợ là Lò Thị B và 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không
Bị cáo hiện tại ngoại tại thôn X , xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái - Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Hữu Thắng - Luật sư Văn phòng luật sư Hữu Thắng - Đoàn luật sư tỉnh Yên Bái bào chữa cho Trần Văn D - Có mặt.
- Người bị hại: Anh Trần Văn C, sinh năm 1994, trú tại: thôn X, xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (Đã chết ngày 16/1/2017).
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại là: Ông Trần Văn P, sinh năm 1972, trú tại: thôn X, xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái - Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1987, trú tại: Thôn 3, làng N, xã T, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái - Có mặt.
Ông Trần Văn P, sinh năm 1972 (bố đẻ anh C)
Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1974 (mẹ đẻ anh C)
Anh Trần Văn T, sinh năm 1996 (em trai anh C)
Đều trú tại: Thôn X, xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
- Người đại diện hợp pháp cho bà H; anh T là: Ông Trần Văn P, sinh năm 1972, trú tại: thôn X, xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái - Có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Ngô Văn K; Phạm Văn T; Phạm Văn M; Phạm Văn B; Cao Đình D - Vắng mặt.
Trần Văn K - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 15/01/2017 Trần Văn D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu ESPERO loại xe WIN, biển kiểm soát (BKS): 21E1-000 trở phía sau anh Trần Văn C, sinh năm 1994 là người cùng thôn với D, đi từ xã An Bình về xã A. Khi về đến Km 56 + 400 đường tỉnh lộ 163 thuộc thôn Gốc Đa, xã A, D nhìn thấy một chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu CHIENTHANG, BKS: 21C-000 do Hoàng Văn L, sinh năm 1987, trú tại thôn 3 Làng N, xã T, huyện Văn Yên điều khiển đang đi phía trước cùng chiều với D, anh L bật xi nhan xin chuyển hướng sang bên trái đường để rẽ vào cổng doanh nghiệp Ngọc Đông An, do xe ô tô của L điều khiển bị hỏng xi nhan trước cụm đèn xi nhan phía sau nhấp nháy sáng nhưng bị nắp bưởng sau của thùng xe che khuất nên D không nhìn thấy, khi cách ô tô khoảng 2 đến 3 mét D ra tín hiệu bật xi nhan và còi để tăng ga vượt xe ô tô. Khi xe mô tô của D điều khiển đi đến ngang phần đuôi sau của xe ô tô thì xe ô tô rẽ vào cổng doanh nghiệp Ngọc Đông An theo hướng đường Yên Bái - Khe Sang. Do khi vượt xe D không làm chủ tốc độ, vượt xe không đảm bảo điều kiện an toàn đã va chạm với má ngoài bánh sau bên lái của xe ô tô cách mép đường phía bên trái khoảng 1 mét và lao về phía trước 5,30 mét rồi đổ xuống đường, đầu xe mô tô quay ra đường Yên Bái - Khe Sang, đuôi xe quay vào cổng doanh nghiệp Ngọc Đông An, còn xe ô tô vẫn tiếp tục đi vào doanh nghiệp Ngọc Đông An cách đó khoảng 10 mét thì dừng lại. Sau khi tai nạn xảy ra, Trần Văn D và Trần Văn C đã được mọi người đưa đi cấp cứu, nhưng do bị thương quá nặng, Trần Văn C đã tử vong ngay sau đó.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 06/KL-GĐ ngày 16/01/2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Yên Bái, đối với Trần Văn C kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định.
- Vùng mặt biến dạng, vỡ xương hốc mắt hai bên, vỡ xương gò má trái, vỡ xương hộp sọ vùng thái dương bên trái, vỡ khung xương hàm trên, hàm dưới dập nát nhiều.
2. Nguyên nhân chết.
Đa chấn thương: Chấn thương hàm mặt - Chấn thương sọ não.
Vật chứng của vụ án Cơ quan điều tra thu giữ và xử lý như sau:
Tạm giữ:
01 xe ô tô tải biển kiểm soát: 21C-000, nhãn hiệu CHIENTHANG màu sơn xanh loại xe ô tô tải ben; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 001704; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS số 60116138; 01 giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô BKS: 21C-000 đều mang tên Nguyễn Văn D, trú tại thôn C, xã S, huyện Văn Yên và 01 xe mô tô biển kiểm soát: 21E1-000 nhãn hiệu ESPERO, mầu sơn đen loại xe mô tô hai bánh.
Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản thiệt hại đối với chiếc xe 01 xe mô tô biển kiểm soát: 21E1-000 nhãn hiệu ESPERO. Tại bản kết luận định giá tài sản số: 12/ĐGTS-HĐĐG ngày 07/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Văn Yên kết luận: “Giá trị thiệt hại của tài sản (Tại thời điểm tháng 04/2017) trưng cầu định giá là: 247.000 đồng” (Hai trăm bốn mươi bẩy nghìn đồng).
Xử lý:
Kết quả điều tra xác định chiếc xe ô tô tải biển kiểm soát: 21C - 000 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 001704; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS số 60116138; 01 giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô là tài sản hợp pháp của anh Hoàng Văn L. Ngày 22/3/2017 cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Hoàng Văn L chiếc xe ô tô và các giấy tờ nêu trên.
Đối với chiếc xe mô tô 01 xe mô tô biển kiểm soát: 21E1-000 nhãn hiệu ESPERO, mầu sơn đen loại xe mô tô hai bánh là tài sản hợp pháp của anh Trần Văn P (Bố đẻ của Trần Văn C), anh P không liên quan đến vụ án. Ngày 12, 13/4/2017 cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh P chiếc xe mô tô nói trên.
Về trách nhiệm dân sự: Người bảo vệ quyền lợi cho Trần Văn C là chị Nguyễn Thị H (mẹ đẻ của C) yêu cầu Trần Văn D phải sửa chữa chiếc xe mô tô BKS: 21E1 - 000, thanh toán tiền mai táng cho Trần Văn C là 43.000.000 đồng (Bốn mươi ba triệu đồng) và bồi thường về tổn thất tinh thần với số tiền là 110.000.000 đồng (Một trăm mười triệu đồng).
Tại Cơ quan điều tra Trần Văn D không thừa nhận hành vi phạm tội đã gây nên cái chết cho Trần Văn C.
Tại bản cáo trạng số: 39/KSĐT ngày 05/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên đã truy tố bị cáo Trần Văn D về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 điều 202 Bộ luật Hình sự 1999. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng khoản 3 điều 29 Bộ luật Hình sự. Đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn D.
Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo không nhất trí với cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo Trần Văn D không phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Đề nghị khôi phục lại mọi quyền lợi cho Trần Văn D. Hủy bỏ quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Hoàng Văn L và truy tố Hoàng Văn L về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đã có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 22 giờ 30 phút, ngày 15/01/2017 Trần Văn D điều khiển xe mô tô BKS: 21E1-000 trở phía sau anh Trần Văn C đi từ xã An Bình về xã Đông An. Khi về đến Km 56 + 400 đường tỉnh lộ 163 thuộc thôn Gốc Đa, xã A, D nhìn thấy một chiếc xe ô tô tải, BKS: 21C-000 do Hoàng Văn L điều khiển đi phía trước. D ra tín hiệu xi nhan và còi để xin vượt xe, lúc này L đã bật xi nhan, điều khiển xe ô tô sang bên trái đường để rẽ vào cổng doanh nghiệp Ngọc Đông An. Do thiếu chú ý quan sát, xe ô tô đi phía trước không tránh về bên phải mà đang rẽ trái, nhưng D vẫn điều khiển xe tăng ga đi sang phần đường bên trái để vượt xe ô tô, nên xe mô tô do D điều khiển đã va chạm với má ngoài bánh sau bên lái của xe ô tô đổ xuống đường. Hậu quả vụ tai nạn: Anh Trần Văn C bị chấn thương hàm mặt, chấn thương sọ não dẫn đến tử vong; Trần Văn D bị thương nhẹ. Chiếc xe mô tô BKS: 21E1-000 bị hư hỏng theo kết quả Hội đồng định giá tài sản là: 247.000đồng (Hai trăm bốn bẩy ngàn đồng). Hành vi nêu trên của Trần Văn D đã vi phạm khoản 1 - Điều 9; khoản 2 - Điều 14; điểm a, đ khoản 5 - Điều 14 Luật giao thông đường bộ. Do D đi không đúng phần đường và vi phạm điều kiện quy định khi vượt xe: “... xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải, không đảm bảo cho việc vượt”. Hành vi của D gây hậu quả nghiêm trọng làm chết 01 người và gây thiệt hại về tài sản là 247.000đồng (Hai trăm bốn bẩy ngàn đồng). Hành vi của bị cáo Trần Văn D đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, theo Bộ luật Hình sự 2015 là khoản 1 điều 260 Bộ luật Hình sự.
[3] Đối với Hoàng Văn L chưa có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe ô tô không có đủ đèn tín hiệu. Vi phạm quy định tại điểm a, khoản 2 - Điều 16; điểm b, khoản 7 - Điều 21 Nghị định số: 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ, nhưng đây không phải là lỗi trực tiếp gây ra tai nạn mà chỉ là lỗi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Nên Công an huyện Văn Yên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Hoàng Văn L trong lĩnh vực giao thông đường bộ là đúng quy định pháp luật.
[4] Quá trình điều tra lại vụ án Bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải số tiền hỗ trợ là 50.000.000đồng. Ông P đã nhận đủ số tiền trên. Ông Trần Văn P đã làm đơn và tại phiên tòa đều đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn D theo quy định tại khoản 3 điều 29 Bộ luật Hình sự 2015.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự 2015 thì được xem xét áp dụng nguyên tắc có lợi đối với người phạm tội. Do vậy việc đề nghị của ông P là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp quy định pháp luật. Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Bị cáo không phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật
[6] Bị cáo; người đại diện hợp pháp của người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 3 điều 29 Bộ luật Hình sự 2015.
Miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trần Văn D.
- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không phải chịu án phí HSST.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người đại diện hợp pháp của người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 02/2018/HS-ST ngày 14/03/2018 về miễn trách nhiệm hình sự đối với vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 02/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về