Bản án 02/2018/HS-ST ngày 08/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK HÀ, TỈNH KONTUM

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 08/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08/01/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2018/HSST, ngày 02/01/2018 (Thụ lý cũ số: 45/2017/HSST ngày 17/11/2017), theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2017/HSST-QĐ, ngày 11/12/2017, đối với bị cáo Hoàng Thị G, sinh ngày 11/7/1992, tại tỉnh Kon Tum.

Nơi cư trú: Thôn 1, xã H, huyện Đ, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Minh C, sinh năm 1967 và bà Đỗ Thị, sinh năm 1969; Bị cáo có chồng tên là Nguyễn Văn T, sinh năm 1985 và hai con tên là Nguyễn Hoàng Thái B, sinh năm 2009 và Nguyễn Hoàng Thái S, sinh năm 2012.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: chưa bị xử lý hành chính lần nào; Bị cáo được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cấp đi khỏi nơi cư trú. Đến nay đưa ra xét xử, có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Chị Trương Thị Thanh H, sinh năm 1991.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện Đ, tỉnh Kon Tum – Có mặt.

- Người làm chứng: Chị Trịnh Thị N, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Tổ 1, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Kon Tum – Vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 09/10/2017, chị Trương Thị Thanh H là giáo viên của trường mầm non tư thục Hoa Thủy Tiên; Địa chỉ tại tổ dân phố 1, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum gọi điện thoại cho bà Võ Thị Đ, sinh năm 1963. Trú tại: Tổ dân phố 3B, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum, đến trường Hoa Thủy Tiên để bán ve chai (vỏ chai nhựa). Trong khi dọn dẹp, chị H để chiếc điện thoại di động hiệu OPPO loại F1S màu hồng của mình trên lan can trước một phòng học. Lúc này, Hoàng Thị G đưa con trai mình là Nguyễn Hoàng Thái S đi học. Sau khi con vào lớp, G ra về thì phát hiện chiếc điện thoại của chị H để trên lan can không có ai trông coi, nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại này để sử dụng. Hoàng Thị G đi tới chỗ để điện thoại lấy chiếc điện thoại rồi tắt nguồn, bỏ vào túi quần và đi về nhà. Khi về đến nhà, G tháo hai sim trong chiếc điện thoại vừa trộm cắp được mang đi cất. Do điện thoại đã được chị H cài mật khẩu, không thể mở được, nên khoảng 16 giờ cùng ngày, G mang chiếc điện thoại đến tiệm điện thoại di động Nguyên Trung thuộc tổ dân phố 1, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum nhờ chị Trịnh Thị M (là chủ tiệm) mở mật khẩu giúp mình. Chị M nhận chiếc điện thoại và hẹn G hôm sau ra lấy. Khoảng 07 giờ ngày 10/10/2017, chị M mở chiếc điện thoại mà G nhờ mở mật khẩu ra thì thấy hình chị H. Do có quen biết với chị H, nên chị M gọi điện báo cho chị H biết việc G nhờ mình mở khóa một chiếc điện thoại di động trong đó có hình n n là hình chị H. Ngay sau đó chị H đã đến cửa hàng kiểm tra chiếc điện thoại và xác nhận đó chính là chiếc điện thoại mình bị mất trộm. Chị H đã báo cho Công an huyện Đăk Hà nội dung sự việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát đi u tra Công an huyện Đăk Hà, G đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 37/KL-ĐGTS ngày 13/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Đăk Hà kết luận: Chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, loại F1S màu hồng, giá trị tài sản là 4.792.000 đồng (Bốn triệu bảy trăm chín mươi hai ngàn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 42/CT-VKS, ngày 16/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà đã truy tố bị cáo Hoàng Thị G về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà phát biểu lời luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên Cáo trạng truy tố, phân tích đánh giá mức độ hành vi nguy hiểm của bị cáo gây ra cho xã hội. Đồng thời đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đ nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 (Nay là khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Hoàng Thị G từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra người bị hại không yêu cầu bồi thường nên không đề cập.

Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định chiếc điện thoại di động OPPO được chị H mua tại cửa hàng điện thoại di động Đức thuộc tổ dân phố 3B, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà vào tháng 11/2016 với giá 5.990.000 đồng (Năm triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng). Đồng thời Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại cùng 02 (hai) sim cho chị H tiếp tục quản lý và sử dụng, nên không đ  cập.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, mà xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo để về nuôi dạy con còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình đi u tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình đi u tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là đúng pháp luật.

[2] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Qua phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng của vụ án và những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đăk Hà đã thu thập, đúng với hành vi phạm tội mà bản cáo trạng số 42/CT-VKS, ngày 16/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà đã truy tố. Như vậy Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà có đủ cơ sở để khẳng định hành vi phạm tội của bị cáo như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 09/10/2017, sau khi đưa con vào lớp học tại trường Mầm non tư thục Hoa Thủy Tiên, bị cáo Hoàng Thị G ra v  thì phát hiện chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, loại F1S của chị Trương Thị Thanh H để trên lan can trước cửa phòng học, xung quanh không có ai, nên bị cáo đã lén lút trộm cắp chiếc điện thoại mang về nhà cất dấu. Đến chiều cùng ngày thì đưa ra tiệm điện thoại Nguyên Trung để nhờ bẻ khóa, vì chiếc điện thoại này của chị Hương đã khóa mật khẩu. Sau khi ra tiệm điện thoại nhờ chị M là chủ tiệm điện thoại bẻ khóa, nhưng chị M hẹn sáng hôm sau ra lấy. Khi chị M mở điện thoại thì thấy hình n n điện thoại là chị H, nên đã gọi điện cho chị H ra và chị H xác nhận đây là chiếc điện thoại của chị bị mất trộm, đồng thời báo Công an huyện Đăk Hà lập biên bản tạm giữ vật chứng.

Tài sản mà bị cáo trộm cắp là một chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, loại F1S màu hồng, có giá trị là: 4.792.000đ (Bốn triệu bảy trăm chín mươi hai ngàn đồng).

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hoàng Thị G phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; (Nay là khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ tài sản để trộm cắp tài sản nhằm mục đích sử dụng cho nhu cầu cá nhân. Đồng thời, khi thực hiện hành vi trộm cắp, bị cáo có đủ độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Thị G đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân về mặt tài sản, gây dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của nhân dân. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, thiếu cảnh giác của chủ sở hữu để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, nhằm giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng thì bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Đi u 48 Bộ luật hình sự năm 1999 (nay là Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo được hưởng các tình tiết: Phạm tội gây thiệt hại không lớn; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Phạm tội thành khẩn khai báo và đã thực sự ăn năn hối cải; Tuổi đời bị cáo còn trẻ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải nuôi hai con còn nhỏ. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tài sản trộm cắp đã thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu, mục đích của bị cáo trộm cắp để sử dụng cho cá nhân mà không có ý định bán tiêu xài. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Đi u 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (Nay là điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách để bị cáo tự rèn luyện, cải tạo trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật và tài sản của người khác.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình đi u tra, cũng như tại tại phiên tòa người bị hại khai đã nhận lại chiếc Điện thoại di động hiệu OPPO, loại F1S màu hồng và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng của vụ án: Trong quá trình đi u tra Cơ quan Cảnh sát đi u tra Công an huyện Đăk Hà xác định Điện thoại di động hiệu OPPO, loại F1S màu hồng và hai chiếc sim điện thoại là tài sản thuộc sở hữu của chị Trương Thị Thanh H, nên đã trao trả cho chị H quản lý, sử dụng. Hội đồng xét xử thấy là hoàn toàn phù hợp, nên không đề cập.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Thị G phải nộp   200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) ti n án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 (Nay là khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị G 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án 08/01/2018. Giao bị cáo Hoàng Thị G cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Kon Tum giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Về án phí: Căn cứ Điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 3; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Hoàng Thị G phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 331; 332; 336 và 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo, người bị hại có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (08/01/2018) lên Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 08/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Hà - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về