TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 08/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 08/01/2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 382/2018/TLST-HS ngày 27/11/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:290/2017/QĐXXST-HS ngày15/12/2017; Quyết định hoãn phiên tòa số: 76/2017/HSST-QĐ ngày 28/12/2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: TRẦN NGỌC H - Sinh năm: 1988
Nơi cư trú: Tổ 02 – AHĐ – NT – TN – Quảng Ngãi
Nghề nghiêp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần L (đã chết) và bà: Trần Thị Kim H (đã chết); có vợ: Huỳnh Thị Thanh T và 02 con; tiền án, tiền sự:không; bị bắt tạm giam từ ngày: 24/7/2017 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa: Luật sư Lê Văn T – thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa bào chữa cho bị cáo. Có mặt
- Người bị hại: Ông Lê Xuân T – sinh năm: 1973
Trú tại: 11/7A LTV – PL – NT. Có mặt
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Trần Thị Ngọc L; Trú tại: Tổ 02 – AHĐ – NT – TN – Quảng Ngãi. Có mặt
2/ Bà Huỳnh Thị Thanh Tâm; Trú tại: 03 tổ 10 – xã NB – Thị xã NH – Khánh Hòa. Có mặt
3/ Nguyễn Xuân Q ; Trú tại: Thôn ĐT – xã VL – Huyện VN – Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có tiền tiêu xài, khoảng 19 giờ ngày 13/4/2008 Nguyễn Xuân Q bàn vớiTrần Ngọc H đến chợ PT, phường PL, thành phố NT trộm cắp vàng, H đồng ý. Sau đó H và Q đi mua cưa sắt chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội. Đến khoảng 0 giờ ngày 14/4/2008, Quốc và H đi đến hiệu vàng Xuân T của anh Lê Xuân T nằm trong chợ PT, Q lấy miếng ván gỗ kê gác lên tường kiốt đột nhập vào hiệu vàng Xuân T, H đi ra ngoài cảnh giới, Q vào trong lấy số vàng trong các khay trưng bày để bán và số vàng của khách gửi giữ gồm các dây chuyền, lắc, bông tai, tổng trọng lượng là 217,08 chỉ vàng 18K; số vàng gồm các loại nữ trang mà khách đến cầm thế cho chủ tiệm vàng được gói trong các bịch giấy, tổng trọng lượng là 98,79 chỉ vàng 18K và 9,01 chỉ vàng 24K
Sau khi chiếm đoạt được số vàng trên, Q đưa cho H một bịch đựng vàng nữ trang cũ gồm nhẫn, dây chuyền, lắc, bông tai; H mang ra tỉnh Quảng Ngãi bán được khoảng 50.000.000 đồng rồi quay trở về NT đưa cho Q 30.000.000 đồng. Sau đó, Q đưa cho H một sợi dây chuyền vàng và H mang đi bán được 8.000.000 đồng, số cònlại Q giữ và mang đi tiêu thụ. Toàn bộ số tiền có được, H và Q đã tiêu xài hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 39/TC-KH ngày 01/3/2011 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang kết luận: 217,08 chỉ vàng18K có giá : 273.520.800 đồng.
Bản kết luận định giá tài sản số: 1516/ TC-KH ngày 17/11/2011 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang kết luận : 98,79 chỉ vàng 18K và 9,01 chỉ vàng 24K ( loại vàng trang sức nữ trang ) có giá: 135.314.000 đồng .
Tổng giá trị tài sản: 408.834.800 đồng.
Ngày 17/01/2012 Nguyễn Xuân Q đã bị Tòa án nhân dân thành phố NhaTrang xử phạt 12 năm tù giam về hành vi phạm tội nêu trên theo quy định tại khoản 3Điều 138 Bộ luật hình sự 1999.
Tại bản cáo trạng số: 279/CT - VKS ngày 22/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố Trần Ngọc H về tội“Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Trần Ngọc H từ bảy năm sáu tháng đến tám năm tù giam.
Phần trách nhiệm dân sự thì bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cùng bị cáo Nguyễn Xuân Q tổng số tiền 408.834.800 đồng.
Luật sư phát biểu: Bị cáo H phạm tội đóng vai trò giúp sức cho Nguyễn Xuân Q và số tiền trộm cắp bị cáo H chỉ được chia 28.000.000 đồng.Tại phiên tòa gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại và hoàn cảnh của bị cáo thật sự khó khăn, vợ bị cáo hiện đang nuôi hai con nhỏ, mong Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Ngọc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi tại phiên tòa.
[2] Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng, hành vi phạm tội của bị cáo có phần hạn chế hơn đối với bị cáo Nguyễn Xuân Q, bị cáo đóng vai trò giúp sức và đứng ngoài cảnh giới, còn Nguyễn Xuân Q vào tiệm vàng “Xuân T” để chiếm đoạt tài sản, tổng giá trị tài sản trộm cắp là: 408.834.800 đồng; số tiền chiếm đoạt bị cáo H được chia ít hơn Nguyễn Xuân Q. Hành vi của bị cáo Trần Ngọc H đã đủ các yếu tố cấu thành tội“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự.
[3] Do đó, cáo trạng số: 279/CT - VKS ngày 22/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố Trần Ngọc H về tội“Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Đánh giá tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguyhiểm cho xã hội, đã chiếm đoạt tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Vì vậy cần thiết xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra nhằm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo khai báo thật thà và thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, bản thân chưa có tiền án tiền sự, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo tốt sớm trở thành người có ích cho xã hội.
Đối với Trần Thị Ngọc L và Huỳnh Thị Thanh T không có căn cứ xác định có hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với hành vi tổ chức đánh bạc của Trần Ngọc H, cơ quan cảnh sát Điều tra công an thành phố Nha Trang đang điều tra làm rõ, khi có căn cứ xử lý sau.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tháng 02/2011 bị cáo Trần Ngọc H đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền 10.000.000 đồng; Tại bản án số:14/2012/HSST ngày 17/01/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã buộc bị cáo Nguyễn Xuân Q bồi thường toàn bộ cho người bị hại là anh Lê Xuân T số tiền 398.834.800 đồng, đến nay bản án đã có hiệu lực pháp luật, nên Hội đồng xét xử không tiếp tục xem xét phần bồi thường trong vụ án này.
Tuy nhiên, gia đình cùng bị cáo Trần Ngọc H tự nguyện bồi thường thêm ngay tại phiên tòa hôm nay số tiền là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) cho anh Lê Xuân T và được anh T chấp nhận. Xét sự tự nguyện này phù hợp với pháp luật nên Tòa ghi nhận.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HS-ST. Miễn án phí DS-ST cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 138; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc H 07 (bảy) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày24/7/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết tại bản án số:14/2012/HSST ngày17/01/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Trần Ngọc H bồi thường cho anh Lê XuânT số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyềnthỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về án phí: Bị cáo Trần Ngọc H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Miễn án phí DSST cho bị cáo.
Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày , kể từ ngày nhận được bản sao bản án.
Bản án 02/2018/HS-ST ngày 08/01/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 02/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về