Bản án 02/2018/HS-ST ngày 02/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 02/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 114/2017/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2017/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Dương Đức M sinh ngày 10/10/1989, tại T1 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: xóm H1, xã T2, huyện Đ, tỉnh T1; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Quý B, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1959; có vợ: Bàn Thị N2, sinh năm 1991 và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giam từ ngày 29/6/2017, hiện đang giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Trần Thị K1, sinh ngày 15/5/1971, tại Y; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: xóm C, xã L1, huyện V, tỉnh T1; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình D và bà Nguyễn Thị H2 (đều đã chết); có chồng là Hoàng Văn T3, sinh năm 1968 và có 02 con, con lớn sinh năm 1990 (đang chấp hành án tại trại tạm giam Tân Lập - Phú Thọ), con nhỏ sinh năm 2010; tiền án: Không, tiền sự: Tháng 03/2017 Trần Thị K bị Công an huyện V, tỉnh T1 xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc; nhân thân: Tháng 02 năm 2012 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/6/2017 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

1. Bà Lê Thị Lạc, Luật sư cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn bào chữa cho bị cáo Dương Đức M. Có mặt.

2. Ông Lê Viết Đô, Luật sư Văn phòng luật sư Triệu Loan thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn bào chữa cho bị cáo Trần Thị K. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 15 giờ 30 ngày 29/6/2017, Công an huyện Cao L2, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an phường K2, thành phố L3 làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba đường T4, phường K2, thành phố L3 bắt giữ 02 đối tượng là Dương Đức M và Trần Thị K1; thu giữ được 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa chất cục bột màu trắng và một số vật dụng khác.

Tại bản kết luận giám định số 278/KL-PC54 ngày 01/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: “Chất cục bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine có trọng lượng 37,595 gam (Đã trừ bì)”.

Tại cơ quan điều tra Dương Đức M và Trần Thị K1 khai nhận: Qua những lần đi đánh bạc, Dương Đức M gặp và quen biết Trần Thị K1, sau đó hai người trao đổi số điện thoại để liên lạc. Khoảng 18 giờ 38 phút, ngày 27/6/2017 Trần Thị K1 gọi điện thoại cho Dương Đức M, sau khi hỏi thăm nhau chuyện làm ăn, thấy Dương Đức M nói đang vay nợ nhiều, cần tiền trả nợ, Trần Thị K1 nói với Dương Đức M: “K1 có bạn tên T5 ở Đ1, Lạng Sơn; để K1 gọi điện hỏi T5 xem có mua ma túy không rồi giới thiệu cho M mua ma túy lên Lạng Sơn bán cho T5”. Sau đó Trần Thị K1 gọi điện thoại cho T5 trao đổi việc mua bán ma túy, T5 nói: “Mua Heroine giá 35.000.000đ/1 cây”. Trần Thị K1 điện thoại thông báo cho Dương Đức M biết và cả hai thống nhất sẽ cùng nhau mua bán ma túy xem lời lãi như thế nào về sẽ tính chia nhau tiền lãi.

Chiều ngày 28/6/2017, Dương Đức M gọi điện thông báo cho Trần Thị K1 biết M đã đi vay được số tiền 30.000.000đ. Trần Thị K1 cho M số điện thoại của người bán ma túy tên là Y1 ở xã La H3, huyện V, tỉnh T1 để M liên hệ mua ma túy và hẹn ngày 29/6/2017 sẽ cùng nhau đem ma túy lên Lạng Sơn bán.

Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/6/2017, Dương Đức M gọi điện thoại cho Y1. Y1 hẹn gặp M, sau đó Y1 bảo M đưa 27.000.000đ (hai mươi bảy triệu đồng), rồi Y1 đưa lại cho M 01 vỏ bao thuốc lá HERO bên trong có 01 cây ma túy Heroine được bọc bằng túi nilon. Sau khi mua ma túy, Dương Đức M thông báo cho Trần Thị K1 biết. K1 bảo M đón xe khách lên gặp K1, trong lúc này Y1 nói với M là Y1 cũng lên nhà K1 rồi Y1 gọi một xe ô tô 04 chỗ đến chở Y1 và M đi. Đến nhà Trần Thị K1, Y1 vào nhà gặp K1 một lúc rồi đi khỏi, còn Dương Đức M cho bao thuốc lá có ma túy giấu vào túi chè để ngụy trang; khoảng 11 giờ cùng ngày, K1 thuê 01 chiếc xe ôm chở M và K1 đến xã Q, huyện L4, tỉnh Lạng Sơn rồi từ đó đón xe khách đi lên thành phố Lạng Sơn. Khi đang trên đường đi lên Lạng Sơn thì T5 gọi điện bảo K1 xuống xe ở thành phố L3, T5 sẽ đến gặp để mua ma túy. Khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, K1 và M đến thành phố L3, K1 và T5 trao đổi địa điểm để T5 đến gặp mua ma túy; khoảng 15 phút sau, khi K1 và M đang ngồi ở quán nước tại khu vực ngã ba đường T4, phường K2, thành phố L3 thì tổ công tác Công an huyện L2 phối hợp với Công an phường K2 đến kiểm tra, phát hiện trong túi nilon đựng chè khô có ma túy, tổ công tác đã đưa Dương Đức M và Trần Thị K1 cùng tang vật đến Công an phường K2, thành phố L3 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong tang vật và đem giám định theo quy định của pháp luật.

Đối với người phụ nữ tên Y1 là người bán ma túy cho M, theo lời Dương Đức M khai là Trần Thị K1 cho M số điện thoại của Y1 để liên lạc, M không biết lai lịch và địa chỉ cụ thể của Y1; Trần Thị K1 cũng không biết lai lịch và địa chỉ cụ thể của Y1, chỉ nghe Y1 nói nhà ở xã H3, huyện V, tỉnh T1. Xác minh về số điện thoại 01294862205 là số điện thoại của đối tượng Y1 sử dụng để liên lạc bán ma túy cho các bị cáo, Viễn thông Lạng Sơn cung cấp chủ thuê bao là Hoàng Việt T6, sinh năm 1992, địa chỉ: T7, V, T1. Triệu tập ghi lời khai Hoàng Việt T6, kết quả: T6 khai nhận bản thân không được đăng ký và không biết ai sử dụng số điện thoại đó, T6 trình bày trong thời gian từ năm 2014 đến tháng 6/2016 nhiều lần T6 đặt giấy chứng minh thư nhân dân của mình tại những điểm dịch vụ cho thuê xe máy điện ở thành phố T1 để thuê xe, có thể ai đó đã lấy giấy chứng minh nhân dân của T6 đi đăng ký số thuê bao điện thoại đó. Do không có thông tin cụ thể về đối tượng, Cơ quan điều tra không thể xác minh làm rõ để xử lý trong vụ án.

Đối với người phụ nữ tên T5 là người hẹn mua ma túy với các bị cáo, theo lời khai của Trần Thị K1: T5 khoảng 47 tuổi, K1 chỉ nghe nói nhà T5 ở thị trấn Đ1, L2, L3, K1 chưa đến nhà nên không biết địa chỉ cụ thể của T5, số điện thoại của T5 hiện nay K1 không nhớ. Do vậy Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh làm rõ để xử lý trong vụ án.

Với nội dung nêu trên, tại bản cáo trạng số: 117/VKS-P1 ngày 20/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo Dương Đức M và Trần Thị K1 về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi Mua bán trái phép chất ma túy như trong cáo trạng là đúng với hành vi phạm tội của các bị cáo và là đúng người, đúng tội, không oan; tuy nhiên cả hai bị cáo đều đổ lỗi cho nhau, không bị cáo nào thừa nhận là người chủ mưu đặt vấn đề mua bán ma túy trước. Các bị cáo đều xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ gia đình.

Ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo như cáo trạng của Viện kiểm sát. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 33; Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Dương Đức M mức án từ 15 đến 16 năm tù giam. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Trần Thị K1 mức án từ 15 đến 16 năm tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có tài sản riêng, do vậy không đảm bảo điều kiện thi hành hình phạt tiền, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh và khung hình phạt truy tố đối với các bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Đức M cho rằng mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc, bởi lẽ bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, do điều kiện hoàn cảnh khó khăn mà phạm tội, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng có khó khăn; số lượng ma túy bị cáo mua bán không phải lớn. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Luật sư cho rằng bị cáo Dương Đức M có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1; khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật và ấn định mức phạt tù thấp hơn mức mà vị công tố đã đề nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Thị K1 cũng đồng tình với ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Đức M, cho rằng mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc đối với các bị cáo. Bị cáo Trần Thị K1 tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, vai trò của bị cáo trong vụ án không hơn bị cáo Dương Đức M, bị cáo chỉ là người giúp sức cho bị cáo M mua bán ma túy. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật và ấn định mức phạt tù thấp hơn mức mà vị công tố đã đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo Dương Đức M và Trần Thị K1 tại phiên tòa phù hợp với hành vi phạm tội và lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và kết luận giám định số 278/KL-PC54 ngày 01/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn; do đó có căn cứ xác định các bị cáo Dương Đức M và Trần Thị K1 đã có sự bàn bạc, trao đổi với nhau để thực hiện hành vi Mua bán trái phép 37,595 gam (đã trừ bì) chất ma túy Heroine với đối tượng khác tại tỉnh T1, sau đó cùng nhau đem lên thành phố L3 để bán vào ngày 29/6/2017, nhưng chưa kịp bán thì bị cơ quan chức năng phát hiện bắt giữ vào hồi 15 giờ 30 ngày 29/6/2017. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo Dương Đức M và Trần Thị K1 về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay đã có hiệu lực thi hành; theo Nghị quyết của Quốc Hội về thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xét xử theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và việc áp dụng quy định của điểm b khoản 3 Điều 251 và các quy định khác của Bộ luật hình sự năm 2015 sẽ không gây bất lợi cho bị cáo, vì vậy, Tòa sẽ xét xử các bị cáo theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện thấy rằng hành vi đó là đặc biệt nghiêm trọng và gây nguy hiểm cao cho xã hội, xâm phạm vào chính sách của nhà nước về chế độ quản lý độc quyền chất ma túy, hành vi đó thể hiện sự coi thường kỷ cương pháp luật, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân; đi ngược lại lợi ích của cộng đồng, xã hội; góp phần tạo thêm khó khăn cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn là mầm mống, nguyên nhân gây tệ nạn xã hội, gây tác hại đến sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình. Để góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng, đồng thời nhằm mục đích răn đe, giáo dục chung, phòng ngừa riêng; Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải xử phạt các bị cáo thật nghiêm, tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của các bị cáo như ý kiến của vị công tố là cần thiết.

[3] Xét thấy trong vụ án hai bị cáo, mỗi bị cáo thực hiện một công đoạn khác nhau nhưng đều chung một mục đích là nhằm kiếm tiền thu lợi bất chính nên đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội, trong đó bị cáo Dương Đức M là người trực tiếp dùng tiền của bản thân để mua bán ma túy; bị cáo Trần Thị K1 là người tích cực giúp sức bằng việc môi giới, tìm người bán, người mua và cùng thực hiện với Dương Đức M, nên bị cáo Trần Thị K1 có vai trò thấp hơn chút ít so với bị cáo Dương Đức M.

Ngoài tình tiết định khung hình phạt các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự;

Về nhân thân: Bị cáo Dương Đức M có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, xa; vùng có điều kiện khó khăn, trình độ hiểu biết pháp luật có phần hạn chế; bị cáo Trần Thị K1 thuộc trường hợp nhân thân không tốt, có 01 tiền sự tháng 3/2017 bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc vẫn đang còn hiệu lực và trước đó đã từng hai lần bị xử phạt hành chính cũng về hành vi đánh bạc. Trong vụ án, sau khi bị bắt giữ, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, vì vậy, cả hai bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; riêng bị cáo Dương Đức M còn được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hội đồng xét xử thấy rằng cả hai bị cáo đều chưa được thu lời bất chính, qua tài liệu điều tra, xác minh các bị cáo không có tài sản nào khác để đảm bảo thi hành án, do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Như vậy, ý kiến của vị công tố về hình phạt chính và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận; ý kiến của các Luật sư đề nghị xử phạt các bị cáo mức án thấp hơn mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị là không có cơ sở chấp nhận.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ vật chứng là 37,595 gam chất ma túy Heroine và 02 chiếc điện thoại di động mà các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Xét, đối với số ma túy Heroine còn lại sau giám định cần tịch thu để tiêu hủy, còn các công cụ mà các bị cáo dùng vào việc phạm tội vẫn còn giá trị sử dụng cần tịch thu hóa giá sung công quĩ nhà nước.

[5] Các bị cáo bị kết tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, trong vụ án còn có một số đối tượng khác, nhưng cơ quan điều tra không thể xác minh làm rõ, vì vậy, khi làm rõ sẽ xử lý sau.

[6] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án; các hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, người bào chữa đều được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận và không có ý kiến khác.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Dương Đức MTrần Thị K1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.1. Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Xử phạt bị cáo Dương Đức M 15 (Mười lăm) năm tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (29/6/2017).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

1.2. Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Xử phạt bị cáo Trần Thị K1 15 (Mười lăm) năm tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (29/6/2017).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

2.1. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì của Công an huyện L2, tỉnh lạng Sơn được niêm phong dán kín, mặt trước có ghi dòng chữ viết tay “TANG VẬT THU GIỮ BẮT QUẢ TANG TRẦN THỊ K1 + DƯƠNG ĐỨC M NGÀY 29/6/2017” tại phần giáp lai mới có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H4, trợ lý giám định Bùi Anh T8 và 02 (hai) hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Mặt sau phong bì có chữ ký cùng tên của những người tham gia niêm phong Dương Đức M, Lăng Đình B1, Hoàng Thị C1, Trần Thị K1 và các hình dấu tròn của Công an phường K2, thành phố L3, tỉnh Lạng Sơn. Bên trong có 37,095 gam chất ma túy Heroine.

- 01 (một) túi nilon màu đỏ, bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng đựng chè búp khô;

2.2. Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số seri: 354577057474180, máy cũ đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng nhạt, số IMEI 1: 863069037846210, máy cũ đã qua sử dụng.

(Các vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/11/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Lạng Sơn và Cục thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn).

3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Dương Đức M và Trần Thị K1, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) để sung công quĩ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (02/01/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 02/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về