Bản án 02/2018/HS-ST ngày 01/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẬN QUAN SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 01/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét  xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2018,

Đối với bị cáo: Phạm Bá H, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1993 tại xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Bản N, xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Phạm Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 24/10/2017, tạm giam ngày 27/10/2017; có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo H: Ông Hà Văn Khôi, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại: Chi nhánh số 1, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Phạm Bá N, sinh năm 1967, nơi cư trú: Bản N, xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt

2. Anh Thao Văn C, sinh năm 1984, nơi cư trú: Bản K, xã N, huyện M, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Ngân Văn N, sinh năm 1987, nơi cư trú: Bản M, xã S, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt

2. Anh Ngân Văn Đ, sinh năm 1988, nơi cư trú: Bản M, xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt

3. Anh Đỗ Văn H, sinh năm 1969, nơi cư trú: Bản T, xã T, huyện M, tỉnh Thanh Hóa; có mặt

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Bá D, sinh năm 1989, nơi cư trú: Bản N, xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; có mặt

2. Anh Vi Đình N, sinh năm 1991, nơi cư trú: Bản H, xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt

3. Anh Lương Quốc Đ, sinh năm 1991, nơi cư trú: Bản X, xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lần thứ nhất: Vào sáng ngày 18/9/2017 Phạm Bá H đến nhà ông Phạm Bá N ở bản N, xã S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa, để mượn xe máy, nhưng ông N không có nhà, trong nhà có con trai ông N là Phạm Bá D đang nằm ngủ. Phạm Bá H hỏi Phạm Bá D để mượn xe máy, thì D nói “không biết chìa khóa ở đâu, không biết bố có cho mượn hay không” ý nói là không đồng ý cho H mượn xe máy rồi ngủ tiếp. H quan sát thấy và đã lấy chiếc chìa khóa xe đang móc ở dây phơi quần áo trong nhà ông N, rồi mở khóa xe máy WAVE ALPHA màu xanh - đen, biển kiểm soát 36M3 - 9827 của ông N, nổ máy điều khiển xe đi sang huyện Mường Lát rồi sang bản Khằm Nàng của nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào để mua ma túy sử dụng. Đến ngày 21/9/2017 Phạm Bá H đem bán chiếc xe lấy của ông N cho Đỗ Văn H ở bản T, xã T, huyện M, tỉnh Thanh Hóa với giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) để lấy tiền mua ma túy và tiêu xài cá nhân.

Lần thứ hai: Vào ngày 10/10/2017 Phạm Bá H đến khu vực suối Té, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát thấy chiếc xe máy WAVE ANPHA màu bạc - đen, biển kiểm soát 36K1-00223 của anh Thao Văn C ở bản K, xã N, huyện M, tỉnh Thanh Hóa đang dựng bên lề đường, quan sát thấy không có người trông coi, H đã giật dây điện sau ổ khóa xe và đấu tắt điện cho xe nổ máy rồi điều khiển xe đi về huyện Quan Sơn. Trên đường đi, H gỡ bỏ biển kiểm soát xe ném ở dọc đường. Về đến xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, H đến nhà Vi Đình N ở bản H, xã S để ngủ nhờ và nói với N là muốn bán xe máy. Ngày 11/10/2017, H và N đến nhà Lương Quốc Đ ở bản X, xã S, huyện Q để rủ Đ đi bán xe. H, Đ, N đi đến nhà Ngân Văn N ở bản M, xã S, huyện Q, tại đây H bán chiếc xe lấy của anh C cho Ngân Văn N với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) rồi cả ba cùng đi sang xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa để ăn uống, tiêu xài. Sau khi mua xe máy anh Ngân Văn N đã bán lại cho Ngân Văn Đ là người cùng bản với giá 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngoài ra quá trình điều tra còn chứng minh được vào ngày 21/10/2017 Phạm Bá H mượn chiếc xe mô tô loại DIDIA, biển kiểm soát 36M2 - 6365 của Bùi Văn Th ở bản B, xã M, Huyện Q, tỉnh Thanh Hóa điều khiển đi đến bản Nàng 1, xã Mường Lý, huyện Mường Lát và bán cho Đỗ Đồng T ở bản N, xã M, huyện M, tỉnh Thanh Hóa với giá 550.000 đồng (năm trăm năm mươi nghìn đồng) để lấy tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng.

Đến ngày 24/10/2017 Phạm Bá H đã đến Cơ quan điều tra Công an huyện Quan Sơn đầu thú, khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Các anh Ngân Văn Đ, Đỗ Văn H và Đỗ Đồng T sau khi biết được xe máy mình mua là tài sản do bị cáo H phạm tội mà có đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Tại bản kết luận Định giá tài sản số 02/KLĐGTS ngày 27/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quan Sơn, kết luận:

- 01 (một) chiếc xe máy dán mác WAVE ALPHA, Số khung: TMV61T00656; số máy: 52MHE000279; xe không biển số. Xác định là xe do Trung Quốc sản xuất, nhãn hiệu DIDIA có trị giá là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), đây là chiếc xe của Bùi Văn T.

- 01 (một) chiếc xe máy WAVE ANPHA màu sơn xanh-đen; gắn biển kiểm soát 36Z6 - 0012; số máy: HC12E-1077603; số khung RLHHC12168Y077541 có trị giá là 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng), đây là xe của Thao Văn C.

- 01 (một) chiếc xe máy WAVE ALPHA, biển kiểm soát 36M3 - 9827; số máy: HC09E6146005; số khung: 09046Y145940 có trị giá là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng), đây là xe của Phạm Bá N.

Sau khi định giá tài sản, Cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe máy WAVE ALPHA, biển kiểm soát: 36M3 - 9827 và chiếc xe máy WAVE ANPHA, biển kiểm soát: 36K1 - 00223 cho các chủ sở hữu là ông Phạm Bá N và anh Thao Văn C. Ông N và anh C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo H phải bồi thường gì.

Đối với chiếc xe máy Phạm Bá H dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của anh Bùi Văn T; Xét thấy giá trị tài sản thấp, không đủ căn cứ xử lý về trách nhiệm hình sự, Cơ quan Công an huyện Quan Sơn đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H, còn chiếc xe máy hiện đang tạm giữ, bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Quan Sơn; Cơ quan điều tra đang tiến hành xác minh làm rõ chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Đỗ Văn H có yêu cầu H phải bồi thường lại số tiền 4.000.000 đồng, anh Ngân Văn N yêu cầu H phải bồi thường lại số tiền 1.500.000 đồng, còn anh Ngân Văn Đ không có yêu gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKS ngày 08/01/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Sơn đã truy tố bị cáo Phạm Bá H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Bá H khai nhận: hành vi của bị cáo như nội dung Cáo trạng nêu là đúng, bị cáo thừa nhận: vào ngày 18/9/2017 H đến nhà ông Phạm Bá N để mượn xe máy, nhưng ông N không có nhà, ở nhà có con trai ông N là Phạm Bá D đang nằm ngũ, H có hỏi thì D nói không biết là chìa khóa ở đâu và không cho mượn, rồi D ngũ tiếp. H quan sát quanh nhà thấy chìa khóa xe treo ở trên dây phơi quần áo, thì lại lấy chìa khóa xe rồi nổ máy đi khỏi nhà ông N đi sang bản Khằm Nàng của nước Lào mua ma túy sử dụng, đến ngày 21/9/2017 đem xe đến bán cho anh Đỗ Văn H ở bản T, xã T, huyện M với giá 4.000.000 đồng lấy tiền mua ma túy sử dụng và chi tiêu cá nhân hết, xe máy bị cáo trộm cắp của ông N là xe WAVE ALPHA màu xanh - đen, biển kiểm soát 36M3 - 9827; Sau đó đến ngày 10/10/2017 H đến khu vực suối Té, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát quan sát thấy chiếc xe máy WAVE ANPHA biển kiểm soát 36K1 - 00223 của anh Thao Văn C đang dựng bên lề đường không có người trông coi, H đã giật đứt giây điện sau ổ khóa xe, rồi nổ máy đi về huyện Quan Sơn, đem bán cho anh Ngân Văn N ở bản M, xã S với giá 1.500.000 đồng và sử dụng chi tiêu hết. Ngoài ra vào ngày 21/10/2017 H còn có hành vi mượn của anh Bùi Văn T ở bản B, xã M chiếc xe máy biển kiểm soát 36M2 - 6365 rồi đem bán cho anh Đỗ Đông T ở Bản N, xã M, huyện M với giá 550.000 đồng lấy tiền mua ma túy sử dụng và chi tiêu cá nhân.

Người bị hại là ông Phạm Bá N vắng mặt tại phiên tòa, lời khai trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào ngày 18/9/2017 ông N đi vắng, ở nhà chỉ có con trai là Phạm Bá D, thì bị mất trộm xe máy WAVE ALPHA, biển kiểm soát 36M3 -9827, khi về nghe cháu D nói lại là do Phạm Bá H lấy, nên ông N đến trình báo Cơ quan Công an; H ông N đã được nhận lại chiếc xe máy bị mất trôm, nên không yêu cầu H phải bồi thường gì.

Người bị hại là anh Thao Văn C vắng mặt tại phiên tòa, lời khai trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào khoảng 17 giờ ngày 10/10/2017 ông C đi bẫy chuột tại khu vực suối Té, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát, ông có dựng chiếc xe máy HONDA WAVE ANPHA biển kiểm soát 36K1 - 00223 ở lề đường, đến khoảng 21 giờ cùng ngày khi ông C quay lại thì phát hiện bị mất trộm xe máy, nên ông C đã đến Cơ quan Công an trình báo việc mất trộm xe máy. Hiện ông C đã được nhận lại xe máy bị mất trộm, nên không yêu cầu H phải bồi thường gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đỗ Văn H trình bày: Sau khi biết xe máy mình mua là tài sản trộm cắp, anh H đã tự nguyện giao nộp lại cho Cơ quan điều tra; Nay anh H yêu cầu H phải bồi thường lại số tiền 4.000.000 đồng,

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh Ngân Văn N, Ngân Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa, lời khai trong hồ sơ vụ án thể hiện: Sau khi biết tài sản mình mua là tài sản trộm cắp, các anh đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra; Nay anh Ngân Văn N yêu cầu H phải bồi thường lại số tiền 1.500.000 đồng, còn anh Ngân Văn Đ không có yêu cầu gì về dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Bá H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Đề nghị áp dụng: khoản 1 Điều 138; Điều 33; các điểm p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo Phạm Bá H từ 18 (mười tám)  tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/10/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc Phạm Bá H phải bồi thường cho anh Ngân Văn N 1.500.000 đồng, bồi thường cho anh Đỗ Văn H 4.000.000 đồng; Anh Ngân Văn Đ không có yêu cầu gì về dân sự nên không xét. Đối với yêu cầu về dân sự của anh Bùi Văn T và anh Đỗ Đồng T không liên quan đến vụ án này, nên không xem xét.

Vể xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong, không xem xét.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh cũng như điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân, điều kiện hoàn cảnh gia đình và khả năng nhận thức của bị cáo để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo đồng ý với ý kiến tranh luận của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận gì khác; lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin được hưởng khoan hồng, được giảm nhẹ hình phạt để sớm về đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
 
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời trình bày của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào các ngày 18/9/2017 và 10/10/2017 Phạm Bá H đã hai lần lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu đem bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, cụ thể: lần thứ nhất chiếm đoạt chiếc xe máy WAVE ALPHA màu xanh - đen, biển kiểm soát 36M3 - 9827 của ông Phạm Bá N, có giá trị là 5.000.000 đồng; lần thứ hai chiếm đoạt chiếc xe máy WAVE ANPHA màu bạc – đên, biển kiểm soát 36K1 - 00223 của anh Thao Văn C, có giá trị 5.500.000 đồng; Như vậy bị cáo H phải chịu trách nhiệm với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 10.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo Phạm Bá H đã phạm vào tội "trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Sơn truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tính chất vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo chỉ vì muốn có tiền tiêu sài cá nhân, khi thấy có sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, đã lợi dụng chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên vụ án xảy ra đã gây nên tâm lý hoang mang, bất bình trong nhân dân, đồng thời gây mất trật tự trị an, làm ảnh hưởng đến sự an toàn xã hội; Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là thanh niên tuổi đời còn trẻ, nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện lao động làm ăn chân chính mà dấn thân vào con đường nghiện ngập ma túy dẫn đến phạm tội; bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần phải xử lý vụ án thật nghiêm tương xứng với hành vi của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Bá H đã 02 (hai) lần trộm cắp tài sản đều có giá trị trên hai triệu đồng, nên phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; Tuy nhiên sau khi phạm tội nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật bị cáo H đã đến Cơ quan Công an đầu thú và tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của minh, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

[5] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo thấy rằng: bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, mới học hết lớp 9 thì bỏ học ở nhà phụ giúp gia đình, nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đây là tình tiết được chấp nhận khi xem xét xử lý vụ án

[6] Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử, xét thấy: cần phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, dăn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét thấy bị cáo Phạm Bá H chỉ phải chịu một tình tiết tăng nặng, trong khi được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội. Xử phạt bị cáo ở mức án như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được tính vào thời gian chấp hành hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo H là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về các tình tiết liên quan đến vụ án:

Đỗ Đồng T, Đỗ Văn H, Ngân Văn N, Ngân Văn Đ không biết các xe máy mình mua là tài sản do phạm tội mà có, nên Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm đối với T, H, N và Đ là phù hợp.

Đối với Vi Đình N và Lương Quốc Đ là người đi cùng với bị cáo H đến bán xe máy cho anh Ngân Văn N, nhưng N và Đ không biết xe máy trên là tài sản do bị cáo H trộm cắp mà có, nên Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm đối với N và Đ là phù hợp.

Đối với chiếc xe máy Phạm Bá H dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của anh Bùi Văn T; Giá trị tài sản thấp, không đủ căn cứ xử lý về trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan Công an huyện Quan Sơn đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H là phù hợp; Còn chiếc xe máy hiện đang tạm giữ, bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Quan Sơn, đề nghị Cơ quan điều tra tiến hành xác minh làm rõ chủ sở hữu hợp pháp để xử lý theo quy định.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông Phạm Bá N và anh Thao Văn C đã nhận lại tài sản bị mất trộm, không có yêu cầu bồi thường gì, nên không xem xét, giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Ngân Văn Đ không có yêu cầu gì về dân sự, nên không xem xét, giải quyết.

Đối với yêu cầu của các anh Đỗ Văn H và Ngân Văn N, Thấy rằng: các anh H và N mua xe máy từ bị cáo H trong khi không biết là tài sản do H trộm cắp mà có; Sau khi biết là tài sản trộm cắp đã tự nguyện giao nộp Cơ quan điều tra trả lại người bị hại. Căn cứ vào quy định tại các Điều 117, 122, 123 và 131 Bộ luật dân sự 2015 thì giao dịch dân sự giữa các anh H và N với bị cáo H là vô hiệu, nên cần buộc bị cáo H hoàn trả lại cho anh Đỗ Văn H 4.000.000 đồng và anh Ngân Văn N 1.500.000 đồng.

Đối với yêu cầu về dân sự của anh Bùi Văn T và anh Đỗ Đồng T, thấy rằng: trong vụ án này chỉ xem xét, xét xử đối với bị cáo Phạm Bá H về tội "trộm cắp tài sản", còn hành vi H dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt chiếc xe máy của anh Bùi Văn T, Cơ quan Công an đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H, chiếc xe máy hiện đang tạm giữ, bảo quản chờ xác minh làm rõ chủ sở hữu hợp pháp để xử lý theo quy định. Do đó, không có căn cứ xem xét trong vụ án này, yêu cầu về dân sự của anh T và anh T sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu.

[10] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe mô tô WAVE ALPHA, biển kiểm soát: 36M3 - 9827 và chiếc xe mô tô WAVE ANPHA, biển kiểm soát: 36K1 - 00223 cho chủ sở hữu là anh Phạm Bá N và anh Thao Văn C là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Về án phí: Bị cáo Phạm Bá H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; Điều 33; khoản 1 Điều 42; Điểm p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999;

Căn cứ vào Điều 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Căn cứ vào Điều 117, 122, 123 và 131 Bộ luật dân sự 2015;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Bá H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Bá H 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/10/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Phạm Bá H phải bồi thường cho anh Đỗ Văn H số tiền là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) và bồi thường cho anh Ngân Văn N  số tiền là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả với mức lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Bá H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng là 500.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Bá H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đỗ Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 01/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quan Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về