TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LIÊU, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 02/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 30 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2017/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXX-ST ngày 02 tháng 01 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên số 01/2018/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2018.
1. Nguyên đơn:Chị Trần Thị M (Sinh năm 1978); Nơi cư trú: Khu B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ninh (Có mặt).
2. Bị đơn: Anh Loan Trung H (Sinh năm 1978); Nơi cư trú: Khu B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ninh (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 11/10/2017 và bản tự khai nguyên đơn chị Trần Thị M trình bày:
Chị M và anh Loan Trung H sau quá trình tự do tìm hiểu, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào tháng 10/2000 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Bình Liêu, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được vài năm thì bắt đầu phát sinh những mâu thuẫn. Cách đây hơn một tháng, chị M có đi ăn cơm với bạn bè, anh H ở nhà trông con. Anh H có gọi điện cho chị M nhiều lần, nhưng do điện thoại để trong ví nên chị M không biết. Anh H có đưa con lên quán hát karaoke (nơi chị M đang hát cùng bạn) rồi sau đó anh H bỏ đi. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày chị M đưa con về nhà ngủ. Gần 01 giờ sáng ngày hôm sau anh H về gọi cửa và chị đã bảo con ra mở cửa. Anh H vào nhà đã chửi mắng chị, đập điện thoại và tủ đựng quần áo; Sau sự việc trên khoảng một tuần, chị M có đi cùng bạn bè ăn cơm và uống rượu say, khi về nhà ngủ nên không biết anh H gọi cửa. Anh H đã phá cửa vào và chửi mắng chị. Từ các nguyên nhân mâu thuẫn trên, chi Mộc đã làm đơn xin đề nghị tòa án giải quyết cho ly hôn; Ngoài ra tại phiên tòa hôm nay chị M còn trình bày: có một cách đây khoảng hơn 10 năm, anh H đã đánh chị dẫn đến chị bị ngất, chỉ vì lý do anh H hiểu lầm chị; Ngoài ra không còn lý do nào khác.
- Về con chung: Chị M và anh H có 02 (hai) con chung là Loan Oanh K (Sinh ngày 24/12/2000) và Loan T (Sinh ngày 29/11/2012). Nguyện vọng của chị M sau khi ly hôn, sẽ trực tiếp nuôi dưỡng con chung Loan Oanh K. Anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Loan T và không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, khoản nợ chung: Chị M đề nghị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Loan Trung H trình bày: Vợ chồng anh sau thời gian tự do tìm hiểu và kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống, vợ chồng nảy sinh những mâu thuẫn dẫn đến cãi vã và xô xát. Theo anh H mâu thuẫn không quá căng thẳng; Khi mâu thuẫn xảy ra thì bản thân anh cũng đã tìm mọi cách để nói chuyện, nhưng chị M không đồng ý; Gia đình và khu phố cũng đã thành lập tổ hòa giải đến khuyên can nhưng chị M vẫn không đồng ý và kiên quyết xin ly hôn; Nay bản thân anh thấy tình cảm đối với vợ vẫn còn, nên anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ, cùng nhau chăm sóc con cái để con cái có điều kiện phát triển tốt nhất.
- Về con chung: Nếu ly hôn, anh H muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Loan Oanh K. Chị M trực tiếp nuôi dưỡng cháu Loan T và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, khoản nợ chung: Anh H đề nghị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Liêu có quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và xét xử đã đảm bảo đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị M đối với anh Loan Trung H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về pháp luật tố tụng: Căn cứ vào đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị M cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo, Hội đồng xét xử đủ căn cứ để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Tranh chấp ly hôn và tranh chấp về nuôi con”; Bị đơn anh Loan Trung H có địa chỉ nơi cư trú: Khu B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ninh; Nên vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Việc thụ lý, thông báo thụ lý, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Đồng thời quá trình hòa giải các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, vì vậy Tòa án đưa vụ án ra xét xử đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị M và anh Loan Trung H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào tháng 10/2000 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Bình Liêu, huyện Bình Liêu. Như vậy đây là hôn nhân hợp pháp, tiến bộ được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Trong quá trình chung sống vợ chồng chị M anh H đã xảy ra mâu thuẫn, với mâu thuẫn mà chị M anh H trình bày nêu trên, thấy rằng đó là những mâu thuẫn nhỏ hàng ngày xảy ra trong đời sống vợ chồng; Bản thân chị M không tìm cách giải quyết, khắc phục tình cảm vợ chồng, bỏ qua mọi lời khuyên nhủ của gia đình, tổ hòa giải khu phố, trong khi mâu thuẫn vợ chồng nguyên nhân cũng có lỗi của chị M; Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ về việc anh H có hành vi bạo lực gia đình hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng đến quyền, nghĩa vụ của chị M; Do đó hôn nhân của chị M anh H chưa lâm vào tình trạng trầm trọng; Vì vậy không có căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị M đối với anh Loan Trung H.
[3]Về con chung; Về tài sản chung: Do yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị M không được chấp nhận; Vì vậy về con chung và tài sản chung không đề cập giải quyết.
[4]Về án phí: Theo quy định tại Khoản 4, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chị Trần Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 28; Điểm a, khoản 1, Điều 35; Điểm a, Khoản 1, Điều 39; Khoản 4, Điều 147; Khoản 1, khoản 2, Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị M đối với anh Loan Trung H.
-Về án phí: Chị Trần Thị M phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà chị M đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006221 ngày 19/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Liêu; Chị M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn; Báo cho nguyên đơn, bị đơn biết quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tuyên án./.
Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 30/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 02/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Liêu - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về