Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 19/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 02/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 31/2018/TLST- HNGĐ ngày10 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2018/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Hương L, sinh năm 1998.

Nơi cư trú: Xóm P 1, xã N, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Phạm Duy Q, sinh năm 1997.

Nơi cư trú: Xóm T, xã N, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nguyên đơn là chị Bùi Thị Hương L trình bày: chị Bùi Thị Hương L và anh Phạm Duy Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Hòa Bình ngày 09/3/2017. Cuộc sống chung sau khi kết hôn được một thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Phạm Duy Q hay ghen tuông không có căn cứ. Mỗi lần ghen tuông, anh Q lại đánh đập, chửi mắng chị L; việc đánh đập xảy ra nhiều lần và có lần anh Q còn nhét giẻ vào miệng chị L và đánh chị L. Mẫu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên nội, ngoại khuyên can, hòa giải nhiều lần nhưng anh Q không thay đổi tính nết. Mẫu thuân ngày càng trầm trọng dẫn đến việc chị L đã sống ly thân anh Q từ tháng 03 năm 2018 cho đến nay. Quá trình sống ly thân, chị L và anh Q cũng không có sự liên lạc, quan tâm gì đến nhau. Nay chi Bùi Thị Hương L thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn; chị không thể tiếp tục chung sống với anh Phạm Duy Q được nữa nên khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Duy Q. Về con chung: Chị Bùi Thị Hương L và anh Phạm Duy Q không có con chung. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: chị L khai không có.

Về phía anh Phạm Duy Q: Anh Q thừa nhận tình trạng vợ chồng như chị L đã trình bày; quá trình kết hôn, việc kết hôn là tự nguyện, cuộc sống chung sau khi kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng là có thật, nguyên nhân mâu thuẫn do ghen tuông nhưng anh Q chỉ khẳng định được đánh chị L 02 lần bằng cách tát chị L nhưng không có lần nào dùng giẻ nhét vào miệng chị L để đánh mà chỉ dùng quần bò bịt miệng chị L để chị L khỏi la hét. Nay chị Bùi Thị Hương L xin ly hôn, anh Q không đồng ý ly hôn vì cho rằng vẫn thương vợ là chị Bùi Thị Hương L. Về con chung, tài sản và nợ chung của vợ chồng đều không có đúng như chị L đã trình bày.

Tại phiên tòa, chị Bùi Thị Hương L giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình là nhất quyết xin ly hôn anh Phạm Duy Q. Anh Phạm Duy Q không đồng ý ly hôn mà không đưa ra được chứng cứ nào khác.

Phía đại diện Viện kiểm sát nhận định về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong việc giải quyết vụ án đến thời điểm xét xử. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng quy định về phiên tòa sơ thẩm. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Về nội dung vụ án: thấy rằng quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Hương L và anh Phạm Duy Q có mâu thuẫn trầm trọng; đã sống ly thân và vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nên đề nghị Hội đồng xét xử quyết định cho ly hôn. Về con chung, tài sản chung, nợ chung vợ chồng hai bên khai nhận không có nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Tranh chấp trong vụ án là tranh chấp về ly hôn. Cả nguyên đơn và bị đơn đều có nơi cư trú tại huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình nên Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do phiên tòa lần thứ nhất vắng mặt bị đơn khi mở phiên tòa mà không có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa là đúng quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung vụ án: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Hương L và anh Phạm Duy Q khi kết hôn là tự nguyện, không vi phạm về độ tuổi cũng như những quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn. Do vậy hôn nhân giữa chị Bùi Thị Hương L và anh Phạm Duy Q được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống sau khi kết hôn giữa chị L và anh Q có xảy ra mâu thuẫn.

Mâu thuẫn đã được xác minh thể hiện vợ chồng chị L và anh Q thường xuyên có cãi vã, xô sát nhau; có hành vi bạo lực gia đình làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, dẫn đến vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 03 năm 2018 đến nay. Quá trình sống ly thân chị L và anh Q cũng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau mà bỏ mặc ai muốn sống thế nào cũng được. Như vậy chị L và anh Q đã không còn thương yêu, không còn chung sống cùng nhau, tình nghĩa vợ chồng không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; đã vi phạm Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị Hương L là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

 [3] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Cả chị Bùi Thị Hương L và anh Phạm Duy Q thừa nhận là không có nên Tòa án xác nhận là sự thật theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Hương L về việc xin ly hôn; cho chị Bùi Thị Hương L được ly hôn với anh Phạm Duy Q.

2. Về con chung: Xác nhận không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Xác nhận không có.

4. Án phí: Chị Bùi Thị Hương L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0004671 ngày 10/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc; chị Bùi Thị Hương L đã nộp xong án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 19/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:02/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về