TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 02/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ KIỆN LY HÔN
Ngày 12/4/2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 04/2018/TLST-HNGĐ ngày 18/01/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXX-ST ngày 16/3/2018 và căn cứ Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2018/QĐST-HNGĐ ngày 27/3/2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phan Thị M – Sinh ngày 20/10/1983 (Có mặt)
- Bị đơn: Anh Lê Đình V – Sinh ngày 25/12/1980 (Vắng mặt)
Đều trú tại: Tổ dân phố T, phường Đ, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 21/8/2017 và bản tự khai ngày26/01/2018 nguyên đơn chị Phan Thị M trình bày như sau: Giữa nguyên đơn và bị đơn anh Lê Đình V đăng ký kết hôn ngày 11/7/2005, đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện không ai ép buộc, hôn lễ được tổ chức theo truyền thống địa phương và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Sau khi tổ chức lễ cưới chị M và anh V về sống với nhau hạnh phúc được một thời gian khoảng hai năm thì xảy ra mâu thuẫn, đến thời điểm chị M làm đơn ra Tòa xin ly hôn với anh V thì hai người đã sống ly thân với nhau. Theo chị M trong cuộc sống giữa chị và anh V có nhiều quan điểm sống khác nhau, anh V bài bạc, không chăm lo đến cuộc sống vợ con. Sự việc của anh chị đã được gia đình nội ngoại hòa giải nhưng không đi đến kết quả gì. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.
Về con chung: Chị M trình bày chị và anh V có hai con chung là cháu Lê Thị Yên C sinh ngày 01/11/2006 và cháu Lê Đình Đ sinh ngày 10/8/2011 từ nhỏ sống với vợ chồng, hiện tại đang sống cùng chị M, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, chị M vẫn giữ nguyên quan điểm và có nguyện vọng là được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai cháu Lê Thị Yên C và Lê Đình Đ và yêu cầu anh V đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu một triệu đồng trên một tháng.
Về tài sản chung: Hai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Hai vợ chồng không nợ ai và ngược lại.
Theo quy định của pháp luật, Tòa án đã Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo và ấn định thời gian mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về các nội dung của vụ án, nhưng tại tất cả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải chị M có mặt, anh V vắng mặt vì vậy phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải không tiến hành được, nên Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành được phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lưu vào hồ sơ để có căn cứ giải quyết vụ án sau này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Việc chị M làm đơn xin được ly hôn với anh V là thuộc quyền của công dân được pháp luật quy định, chị M đã cung cấp đầy đủ các tài liệu liênquan đến việc khởi kiện của mình theo đúng quy định pháp luật, đơn khởi kiện của chị M có hình thức và nội dung đầy đủ theo quy định tại Điều 189 của Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi đương sự cung cấp đầy đủ các chứng cứ liên quan thấy rằng nội dung khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong đơn khởi kiện chị M trình bày chị và anh V đến với nhau hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, hôn lễ được tổ chức đúng phong tục tập quán địa phương, hai người cũng đã có quãng thời gian chung sốnghạnh phúc với nhau nhưng do cách sống khác nhau, không có sự bình đẳng trong cuộc sống nên hai người đã xảy ra mâu thuẫn, mâu thuẫn hai người trở nên trầm trọng vào cuối năm 2017 cho đến nay.
[2] Nguyên nhân dẫn đến việc chị M làm đơn xin ly hôn là hai người cóquan điểm sống khác nhau, không có sự bình đẳng trong cuộc sống, anh V không chăm lo gia đình, bỏ bê công việc. Khi sự việc đó xảy ra gia đình anh em nội ngoại đã hòa giải cũng như khuyên bảo như không có kết quả, trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, chị M vẫn giữ nguyên quan điểm của mình là xin được ly hôn với anh V. HĐXX thấy rằng chị M và anh V sống ly thân với nhau đã một thời gian khá dài, giữa hai người không còn tình cảm, nếu sống với nhau chỉ là hình thức không có hạnh phúc thực sự, hôn nhân không thể đạt được nên hạnh phúc không thể kéo dài, bên cạnh dó anh V thường xuyên vắng nhà, nên tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, việc hai vợ chồng có tiếng nói chung, trở về đoàn tụ với nhau là không thể. Vì vậy, HĐXX chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị M với anh V. Điều đó phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị M có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai cháu Lê Thị Yên C sinh ngày 01/11/2006 và cháu Lê Đình Đ sinh ngày 10/8/2011, chị M có ý kiến nếu con ở với chị M, chị M yêu cầu anh V đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị M mỗi cháu một triệu đồng trên một tháng. HĐXX thấy rằng hai cháu còn nhỏ, một cháu hơn 10 tuổi, mộtcháu hơn 7 tuổi, từ khi hai cháu sinh ra đã ở với mẹ, hiện tại cũng đang ở với mẹ, cuộc sống sinh hoạt của hai cháu đang ổn định, việc xáo trộn nếp sống, sinh hoạt và học hành của hai cháu là không nên, từ nhỏ tới lớn hai cháu ở với nhau, tình cảm chị em hết sức hòa thuận, việc chia cắt tình cảm của hai cháu rất ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của hai cháu, bên cạnh đó hai cháu đều có đơn nguyện vọng là xin được ở với mẹ. Anh V thường xuyên vắng nhà, là lao động tự do nay đây M đó, thu nhập không ổn định, việc anh V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con cái là hết sức hạn chế. Chị M tuy không phải là cán bộ công nhân viên nhà nước nhưng hiện tại chị M có mở ốt làm tóc tại nhà có thu nhập ổn định hàng tháng, có thời gian chăm sóc con cái, việc hai cháu ở với chị M sẽ tốt hơn cho sự phát triển và học hành của hai cháu nên giao hai cháu Lê Thị Yên C sinh ngày 01/11/2006 và cháu Lê Đình Đ sinh ngày 10/8/2011 cho chị M trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng làhoàn toàn hợp lý và có cơ sở, điều đó phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị M có yêu cầu anh V đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị M một cháu một triệu đồng trên một tháng. HĐXX thấy rằng con là con chung của chị M và anh V, vợ chồng sinh con ra đều phải có trách nhiệm đối với con cái, không ai có thể chối bỏ trách nhiệm của mình, khi sinh con ra cha mẹ phải chăm sóc, nuôi dạy, tạo mọi điều kiện để con cái phát triển một cách tốt nhất chị M, anh V cũng vậy hai người đều phải có trách nhiệm với con chung của mình, việc chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai cháu, anh V phải có trách nhiệm chu cấp tiền cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng cho chị M là hoàn toàn phù hợp và được pháp luật quy định. Nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị M buộc anh V phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị M. Đối với số tiền chị M yêu cầu anh V đóng góp hai triệu đồng đối với hai cháu trên một tháng. HĐXX thấy rằng anh V nghề nghiệp là lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên yêu cầu của chị M là không phù hợp với thực tế và thu nhập hiện tại của anh V nên HĐXX không chấp nhận số tiền mà chị M yêu cầu anh V đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị M một tháng 2.000.000đ đối với hai cháu. Căn cứ vào nhu cầu thực tế của hai cháu cũng như thu nhập hiện tại của anh V nên HĐXX quyết định buộcanh V phải có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị M mỗi tháng 700.000 đồng trên một cháu, mỗi tháng đóng một lần, kể từ ngày 01/5/2018.
[4] Quá trình giải quyết vụ án anh V đều vắng mặt dù Tòa án đã tống đạt tất cả các thông báo hợp pháp cho anh V. Ngày 16 tháng 3 năm 2018 Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/3/2018, ấn định thời gian mở phiên Tòa vào hồi 08 giờ 00 phút, ngày 27/3/2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh. Sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã tống đạt cho anh V nhưng anh V không có mặt ở nhà, Tòa án đã lập biên bản về việc không tống đạt được và sau đó tiến hành niêm yết tại tổ dân phố T và trụ sở UBND phường Đ, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Đến ngày giờ địa điểm như trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử đã nêu, phiên Tòa được diễn ra, tại phiên Tòa chị M có mặt, anh V vắng mặt lần thứ nhất không rõ lý do vì vậy HĐXX quyết định hoãn phiên tòa, điều đó phù hợp và được quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi hoãn phiên tòa, Tòa án đã ban hành Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 27/3/2018 và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào hồi 08 giờ 00 phút, ngày12/4/2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi ban hành Quyết định hoãn phiên tòa, Tòa án đã tống đạt cho anh V nhưng anh V không có mặt ở nhà. Tòa án đã lập biên bản về việc không tống đạt được và sau đó tiến hành niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa tại tổ dân phố T và trụ sở UBND phường Đ, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Tại phiên Tòa, chị M có mặt anh V tiếp tục vắng mặt vì vậy HĐXX căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt anh V.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nênHĐXX miễn xét.
[6] Về án phí: Buộc chị M phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm, anh V phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ theo quyết định của Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Phan Thị M. Xử chịPhan Thị M được ly hôn với anh Lê Đình V.
2. Về con chung: Căn cứ vào Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 và Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình: Giao cháu Lê Thị Yên C sinh ngày 01/11/2006 và cháu Lê Đình Đ sinh ngày 10/8/2011 cho chị Phan Thị M trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) hoặc khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh Lê Đình V có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Phan Thị M mỗi cháu một tháng 700.000 (bảy trăm ngàn) đồng, một tháng đóng một lần kể từ ngày 01/5/2018. Anh Lê Đình V có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều 150 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm b khoản 1 Điều 3, Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc chị Phan Thị M phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, chị M đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001137 ngày 18/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Buộc anh Lê Đình V phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng định kỳ theo quyết định của Tòa án.
Chị Phan Thị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, anh Lê Đình V có quyền kháng cáo bản án trong hạn15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 12/04/2018 về kiện ly hôn
Số hiệu: | 02/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về