TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KBANG-TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 02/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/03/2018 VỀ LY HÔN
Trong ngày 08/ 03/ 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 169/ 2017/ TLST-HNGĐ ngày 25/ 10/ 2017 về tranh chấp: “Kiện xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/ 2018/ QĐST-HNGĐ ngày 17/ 01/ 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1995;
Địa chỉ: TDP 2, thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991;
Địa chỉ: TDP 4, thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai.
Chị T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T tự nguyện kết hôn với nhau vào ngày 20/ 4/ 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai.
Quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị T trình bày là do vợ chồng không hợp tính tình nhau, khác nhau về suy nghĩ và quan điểm sống; trong thời gian chị nằm bệnh viện điều trị thì anh T thiếu sự quan tâm chăm sóc, vợ chồng không đoàn kết và chia sẻ với nhau nên cuộc sống hôn nhân căng thẳng, không có hạnh phúc, mạnh ai người đấy sống. Nay chị xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh T được ly hôn với nhau.
Về phía anh T, anh thừa nhận trong quá trình chung sống, giữa anh và chị T đã phát sinh một số mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính tình nhau, khác nhau về suy nghĩ và quan điểm sống; do công việc của anh bận rộn để lo cho gia đình nên trong thời gian chị T nằm viện thì anh đã thiếu sự quan tâm chăm sóc dẫn tới cuộc sống hôn nhân của vợ chồng có căng thẳng. Tuy nhiên, do mâu thuẫn vợ chồng chưa thật sự trầm trọng, anh vẫn còn tình cảm với chị T nên anh không đồng ý ly hôn.
2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh T không có con chung, tài sản chung và nợ chung nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Các tài liệu, chứng cứ được nguyên đơn giao nộp, gồm: 01 Trích lục kết hôn mang tên Trần Thị T - Nguyễn Văn T (bản sao); 01 Sổ hộ khẩu gia đình đứng tên chủ hộ Trần Xuân S (bản sao); 01 Giấy CMND mang tên Trần Thị T (bản sao).
Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh: Chị T và anh T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có ĐKKH tại UBND thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai vào ngày 20/ 4/2017. Điều này được thể hiện qua chứng cứ do chị T giao nộp là Trích lục kết hôn mang tên Trần Thị T-Nguyễn Văn T (bản sao).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng dân sự: Chị Trần Thị T có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai giải quyết việc hôn nhân của anh chị. Theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng đân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có ĐKKH tại UBND thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai vào ngày 20/ 4/ 2017 nên quan hệ hôn nhân của anh chị được pháp luật công nhận.
Quá trình chung sống, giữa anh chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị T trình bày là do vợ chồng không hợp tính tình nhau, khác nhau về suy nghĩ và quan điểm sống; trong thời gian chị nằm bệnh viện điều trị thì anh T thiếu sự quan tâm chăm sóc, vợ chồng không đoàn kết và chia sẻ với nhau nên cuộc sống hôn nhân căng thẳng, không có hạnh phúc, mạnh ai người đấy sống.
Về phía anh T mặc dù không đồng ý ly hôn nhưng anh thừa nhận là trong quá trình chung sống, giữa anh và chị T đã phát sinh một số mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính tình nhau, khác nhau về suy nghĩ và quan điểm sống; do công việc của anh bận rộn để lo cho gia đình nên trong thời gian chị T nằm viện thì anh đã thiếu sự quan tâm chăm sóc dẫn tới cuộc sống hôn nhân của vợ chồng căng thẳng.
Như vậy, xét phần trình bày của hai đương sự thì mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh T đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được; trước khi mở phiên tòa, Tòa án cũng đã tiến hành nhiều phiên hòa giải nhưng anh chị không thể hàn gắn tình cảm được với nhau. Vì vậy, cần căn cứ quy định tại các Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, xử cho chị T được ly hôn với anh T.
[3] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh T không có con chung, tài sản chung và nợ chung nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy,
Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí LH-ST: Chị T phải chịu theo quy định là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 51, 56 và 57 của Luật HN&GĐ năm 2014; - Căn cứ các Điều 144, 147, 227, 228 và 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T, xử cho chị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
2. Về án phí LH-ST: Chị T phải chịu là 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số: 0007133 ngày 25/ 10/ 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Gia Lai, chị T đã nộp đủ án phí LH-ST.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, hai đương sự có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm./.
Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 08/03/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 02/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện KBang - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về