Bản án 02/2017/KDTM-ST ngày 15/05/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 02/2017/KDTM-ST NGÀY 15/05/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 15 tháng 5 năm 2017, tại trụ  sở Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2014/TLST- KDTM ngày 20/5/2014 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2017/QĐST-KDTM ngày 22/3/2017; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2017/QĐST –DS ngày 19/4/2017 giữa:

1. Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC. Địa chỉ khi khởi kiện: Tổ 6, ấp Láng Găng, xã BC, huyện XM, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Địa chỉ hiện nay: Ấp phú Bình, xã Hòa Hiệp, huyện XM, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu Đức, sinh năm: 1980 – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC.

Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Bà Phạm Thị Phúc, sinh năm: 1984, Chức vụ: Cán bộ tín dụng kiêm kế toán, theo giấy uỷ quyền số: 73/UQ/2017 ngày 20/7/2017 của Chủ tịch hội đồng quản trị (Có mặt).

2.  Bị đơn:

- Ông Trần Văn H, sinh năm: 1962 (vắng mặt)

- Bà Đặng Thị H, sinh năm: 1960 (vắng mặt)

Địa chỉ: tổ 2, ấp Khu I, xã BC, huyện XM, tỉnh BR- VT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/01/2013 và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên toà hôm nay đại diện của nguyên đơn cùng thống nhất trình bày như sau:

Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC yêu cầu ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H phải thanh toán cho Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC số tiền là 302.223.333đ, trong đó nợ gốc là100.000.000đ và nợ lãi là 202.223.333đ (lãi suất trong hạn là 15.453.333đ, lãi suất quá hạn là 186.770.000đ tạm tính đến ngày 15/5/2017).

Căn cứ vào hợp đồng tín dụng số 901/HĐTD ngày 27/4/2011 được ký kết giữa Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC (nay gọi tắt là Quỹ tín dụng) với ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H, theo hợp đồng Quỹ tín dụng sẽ cho ông H và bà H vay số tiền 100.000.000đ, thời hạn vay là 08 tháng, lãi suất trong hạn là 1,9%/tháng, lãi suất quá hạn là 2,85%/tháng lãi được trả hàng tháng và gốc trả 01 lần khi đến hạn, mục đích để mua bán nông sản. Ông H và bà H đã nhận đủ số tiền vay ngày 27/4/2011 theo ký nhận tại phụ lục hợp đồng.

Từ khi vay đến nay ông H và bà H chưa thanh toán được cho Quỹ tín dụng lần nào kể cả lãi và gốc nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán toàn bộ tiền gốc và tiền lãi. Vì vậy, Quỹ tín dụng khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông H và bà H phải thanh toán cho Quỹ tín dụng số tiền 302.223.333đ, trong đó nợ gốc là 100.000.000đ và nợ lãi là 202.223.333đ  (lãi suất trong hạn là 15.453.333đ, lãi suất quá hạn là 186.770.000đ tạm tính đến ngày 15/5/2017).

Khi vay hai bên ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 887/HĐTC/QTD ngày 25/4/2013, theo hợp đồng thế chấp này ông H và bà H thế chấp cho Quỹ tín dụng thửa đất số 78 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1506m2 đất nông nghiệp và thửa đất số 464 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1511m2 đất nông nghiệp được Uỷ ban nhân dân huyện XM cấp giấy chứng nhận QSD đất số AĐ 912753 và AĐ 912754 ngày 21/7/2006, đăng ký thế chấp ngày 25/4/2011 tại Văn phòng đăng ký QSD đất huyện XM nay là chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện XM. Nay ông H và bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán vì vậy Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H phải thanh toán cho Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC số tiền 302.223.333đ, trong đó  nợ  gốc  là  100.000.000đ  và  nợ  lãi  là  202.223.333đ (lãi suất trong hạn  là 15.453.333đ, lãi suất quá hạn là 186.770.000đ tạm tính đến ngày 15/5/2017) và lãi suất theo hợp đồng tín dụng số 901/HĐTD ngày 27/4/2011 cho đến khi ông H và bà H thanh toán xong toàn bộ số nợ.

Trường hợp ông H và bà H không thực hiện việc thanh toán nợ hoặc thanh toán không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Quỹ tín dụng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền Cơ quan Thi hành án bán đấu giá tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 887/HĐTC/QTD ngày 25/4/2013 để thu hồi nợ gồm: đất số 78 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1506m2 đất nông nghiệp và thửa đất số 464 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1511m2 đất nông nghiệp được Uỷ ban nhân dân huyện XM cấp giấy chứng nhận QSD đất số AĐ 912753 và AĐ 912754 cho ông H và bà H.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng để ông H và bà H thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự, đã tiền hành tống đạt niêm yết các thông báo hoà giải, giấy triệu tập để tham gia phiên toà nhưng ông H và bà H đều vắng mặt không có lý do.

* Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, cũng như việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ quá án để quá thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng Toà án không ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử là có thiếu sót, vi phạm Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên thiếu sót này không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nhưng đề nghị Toà án cũng cần rút kinh nghiệm.

Về nội dung, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng với ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng thẩm quyền: tại phiên tòa hôm nay,ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H dù đã được niêm yết lần thứ hai để tham gia phiên toà nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, vì vậy xét xử vắng mặt ông H và bà H là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228  Bộ luật tố tụng dân sự. Xét yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC thì quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên là “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” giữa Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC với  bị đơn là ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện XM theo quy định tại Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung yêu cầu tranh chấp của đương sự:

Qua lời khai của đại diện nguyên đơn và những chứng cứ do nguyên đơn cung cấp đã đủ cơ sở xác định: giữa Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC và ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H có quan hệ hợp đồng tín dụng với nhau là đúng, quá trình tham gia tố tụng ông H và bà H vắng mặt tại phiên toà nên Toà án đã căn cứ vào lời khai của đại diện nguyên đơn cũng như những chứng cứ do đại diện nguyên đơn cung cấp và những tài liệu chứng cứ khác được Toà án thu thập theo thủ tục tố tụng dân sự làm căn cứ giải quyết vụ án.

Xét hợp đồng hợp đồng tín dụng số 901/HĐTD ngày 27/4/2011 được ký kết giữa Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC và ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H, theo đó Quỹ tín dụng sẽ cho ông H và bà H vay số tiền 100.000.000đ, thời hạn vay là 08 tháng, lãi suất trong hạn là 1,9%/tháng, lãi suất quá hạn là 2,85%/tháng lãi được trả hàng tháng và gốc trả 01 lần khi đến hạn, mục đích để mua bán nông sản. ông H và bà H đã nhận đủ số tiền vay ngày 27/4/2011 theo ký nhận tại phụ lục hợp đồng. Từ khi vay đến hạn phải thanh toán nợ gốc vào ngày 27/12/2011 ông H và bà H đã vi phạm hợp đồng, không trả gốc và lãi cho Quỹ tín dụng đúng như hợp đồng đã ký nên Quỹ tín dụng chuyển sang nợ quá hạn và tính lãi quá hạn kể từ ngày từ ngày 28/12/2011 đến ngày xét xử sơ thẩm là có căn cứ theo Điều 471, 473 Bộ luật dân sự và các điều khoản trong hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký.

Khi vay để bảo đãm thanh toán bên vay thế cho Quỹ tín dụng thửa đất số 78 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1506m2 đất nông nghiệp và thửa đất số 464 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1511m2 đất nông nghiệp được Uỷ ban nhân dân huyện XM cấp giấy chứng nhận QSD đất số AĐ 912753 và AĐ 912754 ngày 21/7/2006, đăng ký giao thế chấp ngày 25/4/2011 tại Văn phòng đăng ký QSD đất huyện XM nay là chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện XM. Như vậy việc thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất là hợp pháp nên có giá trị bảo đảm thi hành.

Nay ông H và bà H vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông H và bà H phải có trách nhiệm trả toàn bộ số tiền 302.223.333đ, trong đó nợ gốc là 100.000.000đ và nợ lãi là 202.223.333đ  (lãi suất trong hạn là 15.453.333đ, lãi suất quá hạn là 186.770.000đ tạm tính đến ngày 15/5/2017) và lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 1194/HĐTD ngày 21/5/2013 đến ngày trả hết nợ. Nếu ông H và bà H không trả được nợ thì Quỹ tín dụng được quyền yêu cầu bán đấu giá toàn bộ tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất cũng như tài sản gắn liền với đất để thu hồi nợ là phù hợp với các  điều 342, 343, 355, 471, 474,715, 720, 721 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Về chi phí đo vẽ: ông H và bà H phải chịu số tiền 5.663.000đ, do Quỹ tín dụng đã tạm ứng nên ông H và bà H phải hoàn trả cho Quỹ tín dụng số tiền 5.663.000đ.

Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 24, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009,  cụ thể như sau: 302.223.333đ x 5% = 15.111.167đ. Nguyên đơn được trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm; Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 342, 343, 355, 471, 474,715, 720, 721 Bộ luật Dân sự năm 2005; các điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; các điều 24, Điều 27 của Pháp Lệnh về án phí, lệ phí Toà án năm 2009; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC đối với ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Buộc ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H phải có trách nhiệm trả Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC số tiền 302.223.333đ, trong đó nợ gốc là 100.000.000đ và nợ lãi là 202.223.333đ (lãi suất trong hạn là 15.453.333đ, lãi suất quá hạn là 186.770.000đ tạm tính đến ngày 15/5/2017). “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp hợp đồng tín dụng, các bên có thoả thuận về điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Toà án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”. Nếu ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H không trả được nợ thì Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC được quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp: thửa đất số 78 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1506m2 đất nông nghiệp và thửa đất số 464 tờ bản đồ số 14 xã BC, diện tích 1511m2 đất nông nghiệp được Uỷ ban nhân dân huyện XM  cấp  các  giấy  chứng  nhận  QSD  đất  số  AĐ  912753  và AĐ 912754  ngày 21/7/2006, đăng ký giao thế chấp ngày 25/4/2011 tại Văn phòng đăng ký QSD đất huyện XM nay là chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện XM để thu hồi nợ.

Về chi phí đo vẽ: ông H và bà H phải chịu số tiền 5.663.000đ, do Quỹ tín dụng đã tạm ứng nên ông H và bà H phải hoàn trả cho Quỹ tín dụng số tiền 5.663.000đ.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Trần Văn H và bà Đặng Thị H phải nộp số tiền 15.111.167đ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

- Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở BC được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí là 3.442.000đ, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 017968 ngày 20/5/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử phúc thẩm, đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhậnhoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lụât thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

845
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2017/KDTM-ST ngày 15/05/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:02/2017/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:15/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về