TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 02/2017/KDTM-ST VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 05 tháng 7 năm 2017, tại hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện T, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2017/HSST, ngày 25/5/2017 đối với bị cáo:
Thông Văn T , sinh năm 1993, tại tỉnh Bình Thuận; nhân khẩu thường trú: khu phố 1, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở: thôn Lạc Trị, xã P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; dân tộc: Chăm; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; tiền án, tiền sự: không; con ông Thông Văn M và bà Phan Thị Diễm (đã chết); bị bắt tạm giam từ ngày 19/02/2017; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Thông Văn M, sinh năm 1968; trú tại: thôn Lạc Trị, xã P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Thông Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố về hành vi phạm tội như sau: Sau tết Nguyên Đán năm 2017 (không rõ ngày, tháng), Thông Văn T vào ngã tư An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh gặp 01 người đàn ông không rõ lai lịch, mua 300.000 đồng Methamphetamine hay còn gọi là ma túy đá mang về huyện T để sử dụng và bán cho những người nghiện, cụ thể:
Khoảng 13 giờ 30’ ngày 11/02/2017, tại quán karaoke Xuân Khánh thuộc khu phố 7, thị trấn L, huyện T, T bán cho Nguyễn Anh Tuấn là 01 gói ma túy đá, được 300.000 đồng.
Khoảng 13 giờ ngày 16/02/2017, tại nhà của T ở thôn Lạc Trị, xã P, huyện T, T bán cho Tuấn là 01 gói ma túy đá, được 200.000 đồng.
Đến ngày 17/02/2017, T tiếp tục vào ngã 4 An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh mua 5.000.000 đồng ma túy đá của 01 người đàn ông không rõ lai lịch, mang về huyện T. Sau đó, Thông Văn T thuê nhà nghỉ Việt Nga ở khu phố 3, thị trấn L để nghỉ ngơi, đến khoảng 13 giờ 15’ ngày 19/02/2017 Tuấn gọi điện thoại vào số thuê bao số 0962293975 của T để hỏi mua ma túy đá sử dụng, T hẹn Tuấn đến nhà nghỉ Việt Nga để giao dịch mua bán, nhưng chưa mua bán được thì bị tổ công tác bắt quả tang, thu giữ trong người của T 01 gói nilon màu trắng được hàn kín 01 đầu có kích thước 7cm x 03 cm, bên trong chứa 09 túi nilon màu trắng (niêm phong trong hộp số 01), gồm: 08 túi nilon chứa tinh thể màu trắng, kích thước 1cm x 2,5cm, hàn kín 02 đầu; 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng kích thước 4cm x 2,5cm, hàn kín 02 đầu; thu giữ trong phòng: 01 bộ sử dụng ma túy đá, 01 ống hút nhựa màu trắng dài 05 cm, 01 đầu vát nhọn (niêm phong trong hộp số 02); 01 điện thoại di động hiệu SamSung có thẻ sim số 0962293975 (niêm trong trong hộp số 03) và 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave alpha, biển số 86H7 - 8535.
Cùng ngày 19/02/2017, tổ công tác tiến hành khám xét khẩn cấp trong nhà của Thông Văn T ở thôn Lạc Trị, xã P, huyện T và thu giữ trong va ly của T: có 02 gói nilon chứa tinh thể màu trắng (niêm phong trong hộp số 04); 01 đoạn ống nhựa dài 05cm, hàn kín 01 đầu; 01 đầu vát nhọn; 03 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đá và số tiền 3.600.000 đồng.
Tại bản kết luận giám định số 95/KLGĐ-PC54 ngày 20/02/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Thuận kết luận:
Hộp số 01 ký hiệu thành Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,9366 gam; là Methamphetamine
Hộp số 04 ký hiệu thành Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 5,8908 gam; là Methamphetamine
Tổng khối lượng chất Methamphetamine là 7,8274 gam.
Tại bản cáo trạng số: 31/QĐ/KSĐT/VKS-HS, ngày 24/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Thông Văn T về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên đề nghị: áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Thông Văn T từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”
Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.
XÉT THẤY
Lời khai của bị cáo Thông Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở khẳng định bị cáo đã thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát.
Bị cáo Thông Văn T là công dân nhận thức được hành vi của mình, biết hành vi mua bán các loại ma túy là vi phạm pháp luật hình sự nhưng với bản tính xem thường pháp luật nên bị cáo đã vào ngã tư An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh gặp 01 người đàn ông không rõ lai lịch, mua Methamphetamine hay còn gọi là ma túy đá mang về huyện T để sử dụng và bán cho những người nghiện kiếm lời, bị cáo cáo đã bán cho Nguyễn Anh Tuấn một lần vào ngày 11/02/2017, tại quán karaoke Xuân Khánh thuộc khu phố 7, thị trấn L, huyện T, 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng và một lần vào ngày 16/02/2017, tại nhà của bị cáo ở thôn Lạc Trị, xã P, huyện T, 01 gói ma túy đá với giá được 200.000 đồng.
Đến ngày 17/02/2017, bị cáo tiếp tục vào ngã 4 An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh mua 5.000.000 đồng ma túy đá của 01 người đàn ông không rõ lai lịch, mang về huyện T để bán cho những người nghiện. Khi bị cáo thuê nhà nghỉ Việt Nga ở khu phố 3, thị trấn L để nghỉ ngơi và chuẩn bị cáo ma túy đá cho Tuấn thì bị tổ công tác Biên phòng tỉnh Bình Thuận phối hợp với Biên phòng L và Công an thị trấn L bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 7,8274 gam chất Methamphetamine.
Hành vi 2 lần bán 2 gói Methamphetamine với giá 500.000 đồng cho Nguyễn Anh Tuấn và cất giữ 7,8274 gam chất Methamphetamine của bị cáo Thông Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền về ma túy của Nhà nước ta, đe dọa nghiêm trọng đến an tòan, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội; nên phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài, nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời qua đó nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.
Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự, xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nhà nước chúng ta.
Về phần tang vật của vụ án: 10 gói nylon màu trắng và 1,1457 gam, niêm phong trong hộp số 95/1; 02 gói nylon màu trắng và 1,8081 gam, niêm phong trong hộp số 95/2; 01 bộ sử dụng ma túy đá; 01 ống nhựa màu trắng dài 05 cm, 01 đầu vát nhọn và 03 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đá. Methamphetamine là vật cấm lưu hành; bộ sử dụng ma túy đá, ống nhựa, nỏ thủy tinh là vật chứng không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
Số tiền bị cáo bán má túy được 500.000 đồng đây là tiền phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
01 điện thoại di động hiệu SamSung có thẻ sim số 0962293975 của bị cáo, đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với số tiền 3.600.000 đồng là tài sản riêng của cha bị cáo là Thông Văn M nên trả cho ông M.
Bị cáo phải nộp án phí theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Thông Văn T phạm tội Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy.
Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Thông Văn T 7 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 19/02/2017.
Tịch thu tiêu hủy10 gói nylon màu trắng và 1,1457 gam, niêm phong trong hộp số 95/1; 02 gói nylon màu trắng và 1,8081 gam, niêm phong trong hộp số 95/2; 01 bộ sử dụng ma túy đá; 01 ống nhựa màu trắng dài 05 cm, 01 đầu vát nhọn và 03 nỏ thủy tinh.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu SamSung có thẻ sim số 0962293975 (tang vật hiện đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/5/2017 với Công an huyện T)
Buộc bị cáo Thông Văn T nộp lại 500.000 đồng để tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Hoàn trả cho ông Thông Văn M số tiền 3.600.000 đồng tại biên lai thu số 006623 ngày 08/5/2017 của chi cục thi hành án dân sự huyện T
Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng tại biên lai thu tiền số 006624 ngày 08/5/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T.
Áp dụng: điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm
Án xử công khai, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn