Bản án 01/2021/LĐ-PT ngày 26/01/2021 về tranh chấp do bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 01/2021/LĐ-PT NGÀY 26/01/2021 VỀ TRANH CHẤP DO BỊ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Trong các ngày 08 và 26 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số: 15/2020/TLPT-LĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp do bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

Do bản án lao động sơ thẩm số: 01/2020/LĐ-ST ngày 10/07/2020 của Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01a/2020/QĐ-PT ngày 22 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1986 Địa chỉ: Khu tập thể trường Phan Bội Châu, khối Bình Phúc, phường HP, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – có mặt ngày 08/01/2021 vắng mặt ngày 26/01/2021.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Thái Bình D, sinh năm 1982; địa chỉ:

Xóm Khuôn, xã HS, huyện ĐL, tỉnh Nghệ An; có mặt

Bị đơn: Công ty TNHH TTP Việt Nam Địa chỉ: Số 111, đường Thăng Long, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Văn Q; chức vụ: Giám đốc công ty - vắng mặt;

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1988; địa chỉ: Khối 6, thị trấn HN, huyện HN, tỉnh Nghệ An - có mặt.

Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Văn H và bị đơn Công ty TNHH TTP Việt Nam;

Người kháng nghị: Viện trưởng VKSND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và bản án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa nguyên đơn ông Phạm Văn H và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Thái Bình D trình bày: Vào năm 2018, ông H có góp vốn với số tiền là 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng vào Công ty TNHH TTP Việt Nam (sau đây viết tắt là Công ty TTP). Tuy nhiên, giám đốc công ty ông Võ Văn Q chưa làm thủ tục đăng ký thành viên góp vốn cho ông H qua Sở kế hoạch và đầu tư. Ngày 31/3/2018, Công ty TTP đã ban hành Quyết định tuyển dụng nhân sự vị trí Phụ trách phòng Kinh doanh, đối với ông Phạm Văn H kể từ ngày 01/4/2018. Đến khoảng tháng 7/2018, ông H có nghi ngờ về việc ông Q sử dụng vốn góp sai mục đích, ông H và ông Võ Từ Hải (là thành viên Công ty) yêu cầu kiểm kê tài sản, công cụ, dụng cụ để xác định lại giá trị của Công ty đồng thời xác định số vốn còn lại của Công ty. Theo báo cáo tài chính thì ông Võ Văn Q thiếu hụt số tiền 681.389.559 đồng. Ngày 05/9/2018, ông Võ Văn Q ban hành Quyết định và Thông báo chấm dứt hợp đồng lao động với ông H trái pháp luật. Ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty TTP phải bồi thường 116.160.917 đồng gồm các khoản sau:

- Tiền lương tháng 8/2018 là 9.007.038 đồng - Tiền lương 06 tháng do bị chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật ngày 05/9/2018 đến tháng 06/6/2019 là 6 x 8.851.349 = 53.198.098 đồng - Bồi thường 02 tháng tiền lương do ông H không muốn trở lại làm việc là 8.851.349 x 2 = 17.702.698 đồng - Tiền bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội 11 tháng là 8.851.349 x 11 x 21% = 20.933.440 đồng.

- Tiền bồi thường do vi phạm thời gian báo trước là 15.319.642 đồng/45 ngày.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Thoa trình bày: Ông Phạm Văn H là thành viên góp vốn của Công ty TTP chứ Công ty không tuyển dụng ông H làm người lao động tại Công ty. Giữa Công ty và ông H không có hợp đồng lao động và không có Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động. Do đó, việc ông H khởi kiện yêu cầu Công ty TTP bồi thường số tiền 116.160.917 đồng là hoàn toàn không có cơ sở nên phía Công ty không chấp nhận.

Tại bản án số 01/2020/LĐ-ST ngày 10 tháng 7 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã Quyết định:

Căn cứ vào Điều 38, Điều 42, Điều 48 Bộ luật Lao động; Điều 166, điểm a Điều 32, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Phạm Văn H; buộc Công ty TNHH TTP Việt Nam phải bồi thường cho ông Phạm Văn H số tiền là 39.831.070 đồng (Ba mươi chín triệu tám trăm ba mươi mốt nghìn không trăm bảy mươi đồng).

Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, quyền kháng cáo.

Ngày 21/7/2020, ông Phạm Văn H kháng cáo Bản án lao động sơ thẩm số 01/2020/LĐ-ST ngày 10 tháng 7 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố Vinh với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc Công ty TNHH TTP Việt Nam phải bồi thường số tiền rất nhỏ so với quy định của pháp luật; nay đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, buộc Công ty TTP phải bồi thường cho ông tổng số tiền 220.311.970 đồng.

Ngày 22/7/2020, ông Võ Văn Q – Giám đốc Công ty TNHH TTP Việt Nam kháng cáo toàn bộ bản án theo hướng sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn H với lý do: Nguyên đơn không xuất trình được hợp đồng lao động làm căn cứ cho việc tính lương, Tòa án cho rằng ông H là lao động của công ty, dựa vào lời khai của nguyên đơn về mức lương mà buộc Công ty chi trả cho nguyên đơn lương tháng 8/2018 và 02 tháng lương và 45 ngày vi phạm thời hạn báo trước là không có cơ sở.

Ngày 24/7/2020, Viện trưởng VKSND thành phố Vinh ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 656/QĐKNPT-VKS-LĐ kháng nghị đối với bản án số 01/2020/LĐST ngày 10/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh về vi phạm thủ tục tố tụng (Hội đồng xét xử cho đương sự tranh luận lại bài phát biểu của kiểm sát viên và tính án phí sai) và vi phạm về nội dung (quan hệ lao động giữa ông Phạm Văn H và Công ty TNHH TTP Việt Nam không đáp ứng đủ các điều kiện được quy định tại các điều 15, 16, 17, 18, 22 và điều 23 của Bộ luật Lao động 2012. Tòa án cấp sơ thẩm cho ông H được hưởng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động là 17.702.698 đồng và số tiền 13.277.023 đồng do vi phạm thời hạn báo trước 45 ngày là không đúng); đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An sửa bản án sơ thẩm. Buộc công ty TNHH TTP Việt Nam phải trả cho ông H tiền lương tháng 8/2018 số tiền là 9.007.038 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền, người bị kiện vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Nguyên đơn, bị đơn kháng cáo, Viện trưởng VKSND thành phố Vinh kháng nghị trong thời hạn luật định; nội dung, hình thức đơn kháng cáo, Quyết định kháng nghị phù hợp với quy định của pháp luật; vì vậy, kháng cáo của các đương sự, kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Vinh được Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý, giải quyết theo trình tự phúc thẩm là đúng pháp luật. Trong quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và các bên đương sự chấp hành đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Giữ nguyên quan điểm tại quyết định kháng nghị phúc thẩm số 656/QĐKNPT-VKS-LĐ của Viện trưởng VKSND thành phố Vinh. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1, 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận một phần bổ sung kháng cáo tại phiên tòa của bị đơn, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Vinh, sửa bản án sơ thẩm. Buộc Công ty TNHH TTP Việt Nam phải thanh toán cho ông Phạm Văn H tiền lương tháng 8/2018 là 8.907.038 đồng sau khi đã trừ 100.000 đồng phí công đoàn, sửa án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát và các đương sự có mặt tại phiên tòa.

[1] Về tố tụng: Người kháng cáo, người kháng nghị, nội dung và hình thức đơn kháng cáo, Quyết định kháng nghị, thời hạn kháng cáo, kháng nghị là đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 275, 278, 279, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự, nên kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Vinh là hợp lệ và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

- Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn H:

Theo lời khai của ông Thái Bình Dương là người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Văn H tại phiên tòa và căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thể hiện đầu năm 2018 ông Phạm Văn H là thành viên góp vốn của Công ty TTP (có biên bản góp vốn). Ngày 31/3/2018, Công ty TTP đã ban hành Quyết định tuyển dụng nhân sự, vị trí phụ trách phòng Kinh doanh đối với ông Phạm Văn H kể từ ngày 01/4/2018. Ngày 05/9/2018, Công ty TTP đã ban hành Quyết định số 0901/QĐ-TTP về việc thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động đối với Trưởng phòng kinh doanh. Như vậy giữa Công ty TTP và ông H đã có hợp đồng lao động. Công ty đã chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định của pháp luật nên phải bồi thường các khoản cho đến ngày 29/5/2020 với tổng toàn bộ số tiền là 220.311.970 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận Công ty TTP là công ty trách nhiệm hữu hạn, có ban hành Quyết định tuyển dụng nhân sự đối với ông Phạm Văn H nhưng không ký kết hợp đồng lao động. Như vậy, không đáp ứng đủ các điều kiện tại Điều 15, 16, 17, 18, 22, 23 Bộ luật Lao động 2012. Ông H làm việc tại công ty TTP từ ngày 01/4/2018 đến ngày 05/9/2018 Công ty TTP đã ban hành Quyết định số 0901/QĐ-TTP về việc thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động đối với Trưởng phòng kinh doanh. Ông H đã nhận lương đến hết tháng 7, còn tháng 8/2018 chỉ mới nhận được thông báo lương. Do vậy có căn cứ để xác định giữa công ty TTP và ông Phạm Văn H không ký kết hợp đồng lao động, ông H có thời gian làm việc hưởng lương tại Công ty TTP từ ngày 01/4/2018 nên đến ngày 05/9/2018 công ty có Quyết định thôi việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông H là không trái với quy định của pháp luật.

Đối với số tiền khởi kiện yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Phạm Văn H không ký kết hợp đồng lao động, không nộp tiền bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Do đó ông H yêu cầu bồi thường 06 tháng tiền lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, bồi thường 02 tháng tiền lương do ông H không muốn trở lại làm việc, bồi thường do vi phạm thời gian báo trước, bồi thường tiền bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội 11 tháng, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận buộc bồi thường. Về khoản tiền lương tháng 8/2018 công ty TTP cho rằng ông H không phải là nhân viên công ty, không có ngày công lao động nên không có thông báo lương. Việc ông H cung cấp bảng lương không có phê duyệt của giám đốc là không có căn cứ. Xét thấy ông H bắt đầu làm việc liên tục tại công ty TTP từ ngày 01/4/2018 đến ngày 05/9/ 2018 mới có Quyết định thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động. Tiền lương các tháng từ tháng 4 đến tháng 7/2018 đều được kế toán đăng thông báo lương trên hộp thư điện tử của công ty, ông H đều được nhận lương đầy đủ theo thông báo được công ty thừa nhận. Tiền lương tháng 8/2018 của ông H cũng đã được kế toán thông báo trên hộp thư điện tử, được công ty thừa nhận chưa thanh toán. Tất cả các thông báo lương từ trước đến nay đều không có chữ ký của giám đốc. Như vậy có căn cứ cho rằng ông H có làm việc tại Công ty TTP, đã có thông báo lương tháng 8/2018 nhưng chưa được thanh toán. Do đó có căn cứ để chấp nhận buộc công ty TTP trả 8.907.038 đồng tiền lương tháng 8/2018 cho ông H sau khi đã trừ 100.000 đồng phí công đoàn.

- Xét nội dung kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH TTP Việt Nam:

Theo lời khai công ty TTP cho rằng ông Phạm Văn H chỉ là thành viên góp vốn, công ty không ký hợp đồng lao động với ông H nên ông H không phải là nhân viên công ty. Qua các tài liệu chứng cứ các bên đương sự cung cấp thể hiện Công ty TTP có Quyết định tuyển dụng nhân sự, có Quyết định buộc thôi việc đối với ông H và đã trả lương cho ông H từ tháng 4/2018 đến hết tháng 7/2018, tháng 8/2018 ông H đã có thông báo lương. Như vậy, ông H có thời gian làm việc tại thực tế tại công ty và lương tháng 8/2018 chưa được nhận là có căn cứ nên cần buộc công ty TTP phải trả lương tháng 8/2018 cho ông H. Do đó không chấp nhận kháng cáo của công ty TTP về bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn H. Tại phiên tòa công ty TTP bổ sung nội dung kháng cáo, chấp nhận thanh toán tiền lương tháng 8/2018 cho ông Phạm Văn H. Do đó có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TTP.

Xét nội dung kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Vinh:

+ Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm cho đương sự tranh luận lại bài phát biểu của Kiểm sát viên về quan điểm giải quyết vụ án là không đúng quy định tại Điều 262 Bộ luật Tố tụng dân sự, việc sai sót này không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng nhưng chưa ảnh hưởng nghiêm trọng đến giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm. Về cách tính án phí chưa tính đúng theo quy định tại Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nay sửa mức bồi thường do đó cần sửa bản án về án phí.

+ Về nội dung: Quyết định kháng nghị cho rằng giữa ông Phạm Văn H và Công ty TNHH TTP Việt Nam có quan hệ lao động nhưng không ký kết hợp đồng lao động, không đáp ứng đủ các điều kiện tại Điều 15, 16, 17, 18, 22, 23 Bộ luật Lao động 2012. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận buộc công ty TTP phải trả cho ông H 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và số tiền do vi phạm thời gian báo trước 45 ngày là không có căn cứ.

Như đã phân tích tại phần xét kháng cáo của nguyên đơn, xét thấy kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Vinh là có căn cứ. Do đó, chấp nhận toàn bộ kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm. Buộc công ty TNHH TTP Việt Nam phải trả cho ông Phạm Văn H tiền lương tháng 8/2018 sau khi đã trừ 100.000 đồng phí công đoàn.

[3] Về án phí: Ông Phạm Văn H là người lao động khởi kiện yêu cầu giải quyết những vấn đề liên quan chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nên thuộc trường hợp không phải chịu án phí;

Kháng cáo của Công ty TNHH TTP Việt Nam được chấp nhận một phần nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Công ty TTP phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận một phần kháng cáo của ông Phạm Văn H, chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH TTP Việt Nam; chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, sửa bản án sơ thẩm, sửa án phí.

Căn cứ vào Điều 38, Điều 42, Điều 48 Bộ luật Lao động, Điều 166, điểm a Điều 32, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Buộc Công ty TNHH TTP Việt Nam phải thanh toán tiền lương tháng 8/2018 số tiền là 8.907.038 đồng (Tám triệu chín trăm linh bảy nghìn không trăm ba tám đồng) cho ông Phạm Văn H sau khi đã trừ 100.000 đồng phí công đoàn.

Về án phí: Công ty TNHH TTP Việt Nam phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ 300.000 đồng đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An theo biên lai số AA/2020/0001108 ngày 16/10/2020.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

446
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/LĐ-PT ngày 26/01/2021 về tranh chấp do bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Số hiệu:01/2021/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về