TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 01/2021/KDTM-ST NGÀY 02/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ YÊU CẦU XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP
Ngày 02 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Xuyên xét xử công khai vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm thụ lý số: 83/2020/TLST - KDTM ngày 22 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST- KDTM ngày 21 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Địa chỉ: Số 108, đường T, quận H, thành phố Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đức Th- Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Như H– Cán bộ Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam, chi nhánh Bình Xuyên, (Theo văn bản ủy quyền số 013/UQ- HĐQT-NHCT18 ngày 08 tháng 01 năm 2020 “có mặt’’
2. Bị đơn:
- Ông Tạ Văn Đ, sinh năm 1981, “vắng mặt” - Bà Lưu Thị Th, sinh năm 1982, “vắng mặt” Đều ở địa chỉ: TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ghi ngày 16 tháng 10 năm 2020 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Theo quy định về việc cho vay, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Bình Xuyên (Gọi tắt là Ngân hàng) đã làm thủ tục cho ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th vay tiền nhiều lần cụ thể như sau:
Ngày 30 tháng 8 năm 2018 giữa Ngân hàng với ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th đã ký kết Hợp đồng cho vay số: 18.26.0090.2/2018-HĐCV/NHCT262; mục đích sử dụng khoản vay theo hợp đồng là: Bù đắp chi phí xây dựng nhà ở thuộc thửa đất số 07-a, tờ bản đồ số QH tại xã Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 15 tháng 01 năm 2020 giữa Ngân hàng với ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th đã ký kết Hợp đồng cho vay số: 20.26.0002/2020-HĐCVHM/NHCT262; mục đích sử dụng khoản vay theo hợp đồng là: Kinh doanh Kraoke, hàng tạp hoá, vật liệu xây dựng các loại.
Theo hợp đồng hai bên thỏa thuận lãi xuất trong hạn theo phương thức thả nổi và được ghi trong giấy nhận nợ; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Căn cứ vào các hợp đồng cho vay Ngân hàng đã giải ngân cho ông Đ, bà T vay tiền nhiều lần và các lần cho vay bà Lê Thị T đều ký giấy nhận nợ với Ngân hàng.
Theo giấy nhận nợ ngày 31 tháng 8 năm 2018 thì Ngân hàng đã giải ngân cho TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T vay tổng số tiền 1.500.000.000 đồng, thời hạn vay: 60 tháng (Kể từ ngày ký hợp đồng); lãi suất tiền vay theo phương thức thả nổi, mức lãi suất tại thời điểm ký nhận nợ là: 8,2%/năm; mục đích sử dụng khoản vay: Bù đắp chi phí xây dựng nhà ở thuộc thửa đất số 07-a, tờ bản đồ số QH tại xã Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Theo giấy nhận nợ ngày 02 tháng 7 năm 2019 thì Ngân hàng đã giải ngân cho TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T vay tổng số tiền 1.300.000.000 đồng, thời hạn vay: 10 tháng (Kể từ ngày giải ngân); lãi suất tiền vay theo phương thức thả nổi, mức lãi suất tại thời điểm giải ngân là: 8.8%/năm; mục đích sử dụng khoản vay: Thanh toán tiền mua hàng.
Theo giấy nhận nợ ngày 04 tháng 7 năm 2019 thì Ngân hàng đã giải ngân cho TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T vay tổng số tiền 1.200.000.000 đồng, thời hạn vay: 10 tháng (Kể từ ngày giải ngân); lãi suất tiền vay theo phương thức thả nổi, mức lãi suất tại thời điểm giải ngân: 8.8%/năm; mục đích sử dụng khoản vay: Thanh toán tiền mua hàng.
Theo giấy nhận nợ ngày 16 tháng 01 năm 2020 thì Ngân hàng đã giải ngân cho TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T vay tổng số tiền 370.000.000 đồng, thời hạn vay: 10 tháng (Kể từ ngày giải ngân); lãi suất tiền vay theo phương thức thả nổi, mức lãi suất tại thời điểm giải ngân: 9.5%/năm; mục đích sử dụng khoản vay: Thanh toán tiền mua hàng.
Để đảm bảo cho các khoản vay trên bà Lưu Thị Th và ông Tạ Văn Đ đã thế chấp Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cụ thể như sau:
Tài sản 1: Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 và phụ lục của hợp đồng bà Lưu Thị Th và ông Tạ Văn Đ đã thế chấp quyền sử dụng 180m2 đất (Trong đó có 130 m2 đất ở, 50m2 đất cơ sở sản xuất, kinh doanh; thuộc tờ bản đồ số QH TĐC Trại Cúp, thửa đất số 07-a theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 509931, số vào sổ: CH 00422 do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 12/07/2011, đứng tên bà Lưu Thị Th cùng toàn bộ tài sản gắn liền với đất ở khu TC, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tài sản 2: Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 18.26.0090.2/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 bà Lưu Thị Th và ông Tạ Văn Đ đã thế chấp Quyền sử dụng diện tích 150m2 đất, loại đất thương mại, dịch vụ thuộc tờ bản đồ QH, thửa đất 128B, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BV 372069 do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 21/01/2015 đứng tên bà Lưu Thị Th cùng tài sản gắn liền với đất ở khu TC, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong thời hạn vay TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc bà T mới trả được 450.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi của các hợp đồng tính đến ngày 15/4/2020 sau đó không trả thêm được bất cứ khoản tiền nào khác cho Ngân hàng mặc dù ngân hàng đã đôn đốc nhiều lần nhưng TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc bà T vẫn không trả nợ cho Ngân hàng. Theo thỏa thuận trong các hợp đồng Ngân hàng đã chuyển toàn bộ khoản nợ của TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, bà T sang nợ quá hạn.
Tại đơn khởi kiện Ngân hàng đề nghị Toà án nhân dân Huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc buộc bà Lưu Thị Th và ông Tạ Văn Đ phải trả cho ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Bình Xuyên toàn bộ nợ gốc, lãi theo: Hợp đồng cho vay số 18.26.0090.2/2018 – HĐCV/NHCT262 ngày 30/8/2018, là 1.110.326.688đồng, trong đó: (Nợ gốc: 1.050.000.000 đồng; tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn là: 60.326.688 đồng tính hết ngày 16/10/2020). Hợp đồng cho vay số: 20.26.0002/2020 – HĐCVHM/NHCT262 ngày 15/01/2020, là 3.047.584.897đồng; trong đó: (Nợ gốc: 2.870.000.000 đồng; tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn là: 177.584.897đồng tính đến hết ngày 16/10/2020).
Ngày 24 tháng 12 năm 2020 TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc bà T đã trả cho Ngân hàng được 1.400.000.000 đồng tiền nợ gốc. Ngân hàng đã trả cho TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc bà T giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BV 372069 do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 21/01/2015 đứng tên bà Lưu Thị Th của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 18.26.0090.2/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018.
Tính hết ngày 02 tháng 4 năm 2021 TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc bà T chỉ còn nợ Ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và lãi của các hợp đồng tín dụng là 2.953.234.939 đồng, trong đó: (Nợ gốc: 2.520.000.000 đồng; tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn là: 433.234.939 đồng).
Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lưu Thị Th và ông Tạ Văn Đ phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ cả gốc và lãi là 2.935.234.939 đồng (trong đó nợ gốc là 2.520.000.000 đồng; tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn là 433.234.939đồng) đồng thời, bà T và TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc vẫn phải có trách nhiệm tiếp tục trả cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh theo lãi suất thỏa thuận của Hợp đồng cho vay số 18.26.0090.2/2018-HĐCV/NHCT262 ký ngày 30/08/2018 và Hợp đồng cho vay số 20.26.0002/2020- HĐCVHM/NHCT262 ký ngày 15/01/2020 cùng các giấy nhận nợ cho đến khi thanh toán hết nợ vay.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bà Lưu Thị Th và ông Tạ Văn Đ không thực hiện việc trả nợ theo quyết định của bản án, Ngân hàng được quyền đề nghị Cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 đứng tên bà Lưu Thị Th và phụ lục của hợp đồng để Ngân hàng thu hồi nợ.
Ngân hàng xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc không yêu cầu Tòa án giải quyết xử lý đối với tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 18.26.0090.2/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 (tài sản mang tên bà Lưu Thị Th).
Bị đơn TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc vắng mặt nhưng tại biên bản làm việc ngày 20 tháng 11 năm 2020 TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc trình bày và xác nhận: Ông đã biết việc Tòa án thụ lý vụ án và việc Ngân hàng TMCP công thương chi nhánh Bình xuyên khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông thanh toán khoản nợ vay của Ngân hàng. Vợ chồng ông có ký hợp đồng vay nợ và hợp đồng thế chấp tài sản để vay tiền của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam chi nhánh Bình Xuyên và đến nay chưa thanh toán được nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng nên Ngân hàng khởi kiện vợ chồng ông yêu cầu vợ chồng ông trả nợ là đúng, ông không có thắc mắc gì. Đối với yêu cầu của Ngân hàng về việc phát mại 02 tài sản thế chấp ông không đồng ý. Ông từ chối ký vào biên bản làm việc.
Bị đơn bà T vắng mặt nhưng tại biên bản làm việc ngày 26 tháng 3 năm 2021 bà T trình bày và xác nhận: Vợ chồng bà có ký 02 hợp đồng cho vay để vay tiền Ngân hàng và 02 hợp đồng thế chấp tài sản để vay vốn Ngân hàng và đã trả được một phần số nợ như Ngân hàng khởi kiện là đúng, bà không bổ sung gì thêm.
Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà thanh toán trả tổng số tiền nợ cả gốc và lãi, số tiền lãi tính đến hết ngày 24/12/2020 là 2.847.406.712 đồng và tiền lãi phát sinh kể từ ngày 25/12/2020 cho đến khi thanh toán xong nợ gốc bà đồng ý và không có thắc mắc gì về số tiền nợ nhưng hiện nay kinh tế đang khó khăn do dịch bệnh nên chưa có tiền để trả ngay cho Ngân hàng được, bà đề nghị Ngân hàng cho vợ chồng bà được trả dần số nợ, thời gian trả nợ bà chưa xác định được.
Trường hợp vợ chồng bà không trả được nợ cho Ngân hàng, bà đồng ý phát mại tài sản theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 giữa vợ chồng bà với Ngân hàng để Ngân hàng thu hồi nợ.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên phát biểu quan điểm như sau:
Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm nhận đơn khởi kiện cho đến khi thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ và việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử Thẩm phán giải quyết vụ án đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Không có.
Về đường lối giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 91; khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; các Điều 280, 299, 317, 318, 319, 463, 466 của Bộ luật dân sự; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
Buộc ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th phải trả cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam tổng số tiền nợ cả gốc và lãi là 2.953.243.939 đồng (Trong đó nợ gốc 2.520.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn + tiền lãi phạt quá hạn là 433.234.939 đồng. TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T phải tiếp tục trả tiền lãi cho Ngân hàng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm đối với số dư nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ theo mức lãi suất thoả thuận trong Hợp đồng cho vay số: 18.26.0090.2/2018-HĐCV/NHCT262 ngày 28 tháng 8 năm 2018 và Hợp đồng cho vay số: 20.26.0002/2020- HĐCVHM/NHCT262 ngày 15 tháng 01 năm 2020 cùng giấy nhận nợ.
Trường hợp ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th không thanh toán được toàn bộ số nợ trên thì toàn bộ tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số:
18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 cùng phụ lục của hợp đồng được xử lý để thu hồi nợ cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật (Việc xử lý tài sản thế chấp theo số liệu đo đạc thực tế mà Cơ quan Thi hành án kê biên tại thời điểm thi hành án).
Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam về việc xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.26.0090.2/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 là Quyền sử dụng diện tích 150m2 đất, loại đất thương mại, dịch vụ thuộc tờ bản đồ QH, thửa đất 128B, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BV 372069 do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 21/01/2015 đứng tên bà Lưu Thị Th cùng tài sản gắn liền với đất ở khu TC, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam khởi kiện yêu cầu TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T phải trả tiền vay từ Hợp đồng tín dụng đã ký kết mục đích vay để sửa chữa nhà và kinh doanh Karaoke nên đây là vụ án kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong thời hạn giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần triệu tập và gửi thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để bị đơn đến Tòa án làm việc nhưng bị đơn đều vắng mặt không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập và thông báo của Tòa án nên Tòa án không tiến hà nh hòa giải liên quan đến phần trả nợ và tài sản thế chấp được.
Bị đơn bà T vắng mặt tại phiên tòa nhưng bà có đơn đề nghị tòa án giải quyết và xét xử vụ án vắng mặt bà nên Tòa án tiến hành giải quyết vụ án và đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà T theo quy định của pháp luật. Bị đơn là TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành giải quyết vụ án và đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử thấy: Hợp đồng cho vay số: 18.26.0090.2/2018-HĐCV/NHCT262 ngày 30 tháng 8 năm 2018; Hợp đồng cho vay số: 20.26.0002/2020-HĐCVHM/NHCT262 ngày 15 tháng 01 năm 2020 cùng phụ lục của hợp đồng và Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 cùng phụ lục của hợp đồng được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Bình Xuyên (gọi tắt là Ngân hàng) với ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th được giao kết đúng quy định của pháp luật.
Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền cả gốc và lãi là 2.953.234.939 đồng (Trong đó nợ gốc: 2.520.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn + tiền lãi phạt quá hạn là 433.234.939 đồng, tính đến hết ngày 02 tháng 4 năm 2021) và yêu cầu tiếp tục phải trả tiền lãi phát sinh của các theo hợp đồng cho vay kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết số nợ. Bị đơn thừa nhận khoản tiền nợ mà Ngân hàng yêu cầu và không có thắc mắc gì nhưng chưa có tiền trả cho Ngân hàng. Bà T đề nghị Ngân hàng cho vợ chồng bà được trả dần số nợ, thời gian trả nợ bà chưa xác định được nên không được Ngân hàng đồng ý. Do vậy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật nên buộc TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ: 2.953.234.939 đồng (Trong đó: Nợ gốc 2.520.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn + tiền lãi phạt quá hạn là 433.234.939 đồng, tính đến hết ngày 02 tháng 4 năm 2021) và tiếp tục trả tiền lãi của số dư nợ gốc chưa thanh toán kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ theo mức lãi suất thoả thuận trong Hợp đồng cho vay số: 18.26.0090.2/2018-HĐCV/NHCT262 ngày 30 tháng 8 năm 2018 và Hợp đồng cho vay số: 20.26.0002/2020-HĐCVHM/NHCT262 ngày 15 tháng 01 năm 2020 cùng giấy nhận nợ.
Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp Hội đồng xét xử thấy: Theo các tài liệu mà Ngân hàng nộp tại Tòa án cũng như lời trình bày của các đương sự thì bà Lưu Thị Th và ông Tạ Văn Đ có ký Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.26.0090.2/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 và Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 cùng phụ lục của hợp đồng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho các khoản vay tại Ngân hàng. Bà T khẳng định khi ký hợp đồng thế chấp cùng phụ lục của hợp đồng để thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất cùng các tài sản được xây dựng trên đất để đảm bảo cho các khoản vay của TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T tại Ngân hàng đều tự nguyện, không bị ai ép buộc. Bà T đồng ý bán phát mại tài sản thế chấp, theo hợp đồng số 18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 để Ngân hàng thu hồi nợ trong trường hợp vợ chồng bà không trả được nợ cho Ngân hàng. TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc không đồng ý xử lý đối với tài sản thế chấp trong trường hợp vợ chồng ông không trả được nợ cho Ngân hàng. Hiện TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc bà T đang quản lý sử dụng tài sản thế chấp. Tại mục b của điểm 2.4 hợp đồng thế chấp tài sản bà T và TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc cam kết mọi tài sản gắn liền với thửa đất trước và trong quá trình sử lý tài sản thế chấp đều thuộc tài sản thế chấp và bên nhận thế chấp được quyền xử lý, cho dù tài sản đó tồn tại trước hay sau thời điểm ký hợp đồng này cho dù tài sản đó do bên thế chấp đầu tư, cải tạo, xây dựng thêm hay cho phép bên thứ ba đầu tư xây dựng thêm. Tất cả các tài sản xây dựng trên diện tích thửa đất hiện tại và sau ngày ký hợp đồng đảm bảo tiền vay đều thuộc tài sản thế chấp đảm bảo nợ vay Ngân hàng. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định bà T và TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đã dùng toàn bộ khối tài sản của mình là Quyền sử dụng 180 m2 đất (Trong đó có 130 m2 đất ở, 50m2 đất cơ sở sản xuất, kinh doanh; thuộc tờ bản đồ số QH TĐC, thửa đất số 07- a, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 509931, số vào sổ: CH 00422 do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 12/07/2011, đứng tên bà Lưu Thị Th cùng tài sản gắn liền với đất ở khu TC, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc để đảm bảo cho các khoản vay của ông Đ, bà T tại Ngân hàng. Việc các bên ký hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo cho khoản vay là đúng quy định của pháp luật và tài sản thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm. Chính vì vậy, nếu ông Đ, bà T không trả được số nợ trên cho Ngân hàng thì toàn bộ tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất cùng toàn bộ tài sản xây dựng trên phần đất nêu trên sẽ được xử lý để Ngân hàng thu hồi nợ theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Ngân hàng, bà T và các điều khoản của hợp đồng thế chấp.
Việc TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đưa ra ý kiến không đồng ý xử lý đối với tài sản thế chấp trong trường hợp vợ chồng ông không trả được nợ cho Ngân hàng là không có căn cứ nên không được chấp nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cùng với chính quyền địa phương đến tại thửa đất số 07-a, khu TC, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc để tiến hành thẩm định tài sản nhưng TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc không đồng ý cho thẩm định tài sản và đóng cửa nhà nên không thể tiến hành thẩm định cụ thể đối với phần tài sản thế chấp tại Ngân hàng được nên khi xử lý đối với tài sản thế chấp Cơ quan thi hành án căn cứ vào số liệu đo đạc thực tế tại thời điểm Thi hành án để kê biên đối với tài sản.
Tại phiên tòa nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện là không yêu cầu Tòa án giải quyết xử lý đối với tài sản thế chấp sau: Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.26.0090.2/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 là Quyền sử dụng 150m2 đất, loại đất thương mại, dịch vụ thuộc tờ bản đồ QH, thửa đất 128B, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BV 372069 do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 21/01/2015 đứng tên bà Lưu Thị Th cùng tài sản gắn liền với đất ở khu TC, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Xét thấy việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện không trái với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu là không yêu cầu xử lý đối với 01 tài sản nêu trên.
[3] Về án phí: TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ngân hàng không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4] Về chi phí tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Ngân hàng tự chi phí cho việc thẩm định tài sản và xin tự nguyện chịu toàn bộ chi phí thẩm định tài sản, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 91; khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; các Điều 280, 299, 317, 318, 319, 463, 466 của Bộ luật dân sự; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
Buộc ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th phải trả cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam tổng số tiền nợ cả gốc và lãi là 2.953.243.939 đ (Hai tỷ chín trăm năm mươi ba triệu hai trăm bốn mươi ba nghìn chín trăm ba mươi chín đồng) (Trong đó nợ gốc 2.520.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn + tiền lãi phạt quá hạn là 433.234.939 đồng). TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T phải tiếp tục trả tiền lãi cho Ngân hàng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm đối với số dư nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ theo mức lãi suất thoả thuận trong Hợp đồng cho vay số: 18.26.0090.2/2018- HĐCV/NHCT262 ngày 30 tháng 8 năm 2018 và Hợp đồng cho vay số: 20.26.0002/2020-HĐCVHM/NHCT262 ngày 15 tháng 01 năm 2020 cùng các giấy nhận nợ.
Trường hợp ông Tạ Văn Đ và bà Lưu Thị Th không thanh toán được toàn bộ số nợ trên cho Ngân hàng thì toàn bộ tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số: 18.26.0090.1/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 được xử lý để thu hồi nợ cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật. (Việc xử lý tài sản thế chấp theo số liệu đo đạc thực tế mà Cơ quan Thi hành án kê biên tại thời điểm thi hành án).
Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam về việc xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.26.0090.2/2018/HĐBĐ/NHCT262 ngày 29/08/2018 là Quyền sử dụng 150m2 đất, loại đất thương mại, dịch vụ thuộc tờ bản đồ QH, thửa đất 128B, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BV 372069 do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 21/01/2015 đứng tên bà Lưu Thị Th cùng tài sản gắn liền với đất ở khu TC, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Về án phí: TDP Tr, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc và bà T phải chịu 91.064.000đ (Chín mươi mốt triệu không trăm sáu mươi tư nghìn đồng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm; hoàn trả Ngân hàng 56.000.000đ (Năm mươi sáu triệu đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số /2017/0009881 ngày 21 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 01/2021/KDTM-ST ngày 02/04/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp
Số hiệu: | 01/2021/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 02/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về