Bản án 01/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2020/HS-ST ngày 15 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Đại S, sinh năm 1986. Nơi cư trú: ấp Đông Sơn 2, thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoàng Oanh (chết) và bà Phan Thị Lệ (chết); bị cáo là con duy nhất trong gia đình; bị cáo chưa có vợ.

Tiền án; tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2020 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Đinh Văn D, sinh năm 1977. Nơi cư trú: ấp Tà Lóc, xã Sơn Kiên, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

Người làm chứng:

1/ Ông Ngô Văn Tr, sinh năm 1976. Nơi cư trú: ấp Tân Hiệp, xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang (vắng mặt).

2/ Anh Đào Hải Đ, sinh năm 1989. Nơi cư trú: ấp Tô Bình, xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (vắng mặt).

3/ Ông Đào Văn Ch, sinh năm 1965. Nơi cư trú: ấp Tân Đông, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 22/9/2020, bị cáo Nguyễn Đại S đi xe buýt từ thành phố Long Xuyên đến nhà anh Đào Văn Ch tại ấp Tân Đông, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn rủ Ch đi uống rượu, nhưng Ch từ chối nên bị cáo đi bộ ra đầu lộ, trên đường đi bị cáo nhặt được 02 chìa khóa xe mô tô, đồng thời nhìn thấy trước nhà nuôi yến của anh Đinh Văn D (cách nhà anh Ch khoảng 300m) dựng xe mô tô biển số 68T7-7504 không người trông coi, S đi đến dùng chìa khóa nhặt được gắn vào ổ khóa xe này bật công tắc nổ máy điều khiển xe chạy ra đường tỉnh 943 về hướng huyện Tri Tôn, khi này anh D phát hiện truy hô, đồng thời điện thoại cho Ngô Văn Tr biết việc mất xe trên thì Tr điện thoại cho gia đình Đào Hải Đ ở ấp Tô Bình, xã Cô Tô, huyện Tri Tôn cho biết biển số và mô tả đặc điểm xe, nhờ Đ ra đường đón chặn. Cùng lúc này, Đ phát hiện bị cáo S đang điều khiển xe 68T7–7504 của D nên chặn lại, trình báo Công an xã Cô Tô mời bị cáo về làm việc và thông báo chuyển cho Công an thị trấn Óc Eo xử lý.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô biển số 68T7–7504.

- 02 chìa khóa xe mô tô phía trên có ghi chữ VUONG MIEN có gắn miếng mica khung gắn sim 4G mạng Viettel màu trắng xanh;

- 01 quần jean lửng màu xanh; 01 áo sơ mi tay dài màu trắng xanh.

Ngày 01/10/2020, Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Đinh Văn D xe mô tô biển số 68T7–7504.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 150/KL-HĐ ngày 28/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thoại Sơn, kết luận: 01 xe mô tô biển số 68T7-7504, hiệu Honda loại Wave Alpha, màu đen bạc, số khung 09086Y194560, số máy C09E-6194547, trị giá 7.740.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 02/CT-VKSTS ngày 14/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Đại S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo ăn năn, hổi cải về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại anh Đinh Văn D trình bày như nội dung vụ án đã nêu. Anh D đã nhận lại xe mô tô nên không yêu cầu bồi thường thiệt hại, yêu cầu xử lý S theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu lời luận tội đối với bị cáo và giữ nguyên truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại S mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại đã nhận lại tài sản nên không đề cập xem xét.

Về phần vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này còn có người bị hại, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy; sau khi vụ án xảy ra, người bị hại, người làm chứng đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Đại S: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng, các biên bản hoạt động tố tụng. Ngoài ra còn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đầy đủ căn cứ xác định: Vào ngày 22/9/2020, do muốn có xe để sử dụng, Nguyễn Đại S đã lén lút lấy trộm xe mô tô biển số 68T7-7504 của ông Đinh Văn D trị giá tài sản 7.740.000 đồng. Căn cứ vào quy định của pháp luật, hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn đã truy tố bị cáo về tội danh, Điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét thấy, bị cáo Nguyễn Đại S là người đã trưởng thành, có sức khỏe nhưng không chịu lo lao động để nuôi sống bản thân, giúp ích cho gia đình và xã hội, ngược lại vì tham lam tư lợi muốn có tài sản sử dụng mà không phải lao động vất vã nên dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Bị cáo biết trộm cắp tài sản người khác là phạm tội nhưng vẫn cố ý thực hiện và thực hiện đến cùng; điều này thể hiện bị cáo là người xem thường pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chẳng những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân vì phải thường xuyên đề cao cảnh giác. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng: không

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình, có xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ sau: Bị cáo xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, học vấn thấp; bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị có thật thà khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; tài sản bị hại mất đã được thu hồi lại nên thiệt hại chưa xảy ra. Vì vậy khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có cân nhắc, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ được 02 chìa khóa xe mô tô phía trên có ghi VUONG MIEN có gắn miếng mica khung gắn sim 4G mạng Viettel màu trắng xanh; 01 quần jean lửng màu xanh; 01 áo sơ mi tay dài màu trắng xanh. Đây là vật chứng liên quan đến vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên bố tịch thu tiêu hủy.

[7] Bị cáo Nguyễn Đại S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đại S phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại S 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 9 năm 2020.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 02 chìa khóa xe mô tô phía trên có ghi VUONG MIEN có gắn miếng mica khung gắn sim 4G mạng Viettel màu trắng xanh;

01 quần jean lửng màu xanh; 01 áo sơ mi tay dài màu trắng xanh.

(Các vật chứng này hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 02/QĐ-VKSTS ngày 14/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

thẩm.

- Buộc bị cáo Nguyễn Đại S phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án; riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã, thị trấn nơi đương sự cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về