TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YL, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:
1, NGUYỄN VĂN T, Tên gọi khác: Không, Sinh ngày: 03/3/1976 tại xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi cư trú: Khu 5, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi đăng ký tạm trú: Khu L, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân thuộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Như I (đã chết) và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1952; Vợ: Dương Thị M, sinh năm 1974; Con: 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Xấu, án tích đã bị xét xử 05 lần:
- Bản án số 59 ngày 08/10/1997 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phảiạt 24 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân.
- Bản án số 22 ngày 17/3/1998 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Thọ xử phạt 09 tháng tù về tội Trốn khỏi nơi giam.
- Bản án số 56 ngày 29/11/2006 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
- Bản án số 31 ngày 01/4/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Bản án số 81 ngày 31/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 01 năm 05 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Đến ngày 15/01/2021, bản án chưa có hiệu lực pháp luật).
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/8/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. Hiện nay đang chấp hành Quyết định tạm giam số 15/2020/HSST- QĐTG, ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
2, HOÀNG TRỌNG B, Tên gọi khác: Không, Sinh ngày: 26/4/1985 tại tại xã Đ, huyện Y, Tuyên Quang; Nơi ĐKHKTT: Số nhà 103 đường N, phường B, thành phố Y, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân thuộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Tiến D (đã chết) và bà Đinh Thị H, sinh năm 1949; Vợ: Vũ Thị C, sinh năm 1992; Con: 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; Bị cáo bị bắt tạm giữ 06 ngày (từ ngày 08/8/2020 đến ngày 14/8/2020), được thay đổi biện phảiáp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/8/2020. Hiện nay đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 83/2020/HSST-LC, ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
Người bị hại:
1, Chị Lê Thị Kim P, sinh năm 1980, nơi cư trú: Khu 9, xã Đ, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang. Nay là tổ 10 phường P, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).
2, Bưu điện xã M do chị Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1982, nơi cư trú:
Khu 5, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (vắng mặt).
3, Ông Hà Văn H, sinh năm 1964, nơi cư trú: Khu 1, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
4, Nhà thờ họ giáo T, xã H do ông Lê Doanh D, sinh năm 1966, nơi cư trú:
Khu T, xã H, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
5, Nhà văn hóa khu V, xã M do anh Nguyễn Thành S, sinh năm 1979, nơi cư trú: Khu V, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
6, Ông Nguyễn Địch Đ, sinh năm 1963, nơi cư trú: Khu 1 M, xã T, huyện C, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
7, Chị Đàm Thị T, sinh năm 1976, nơi cư trú: Khu Xuân N, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
8, Nhà thờ xứ Hương C, xã H do anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1973, nơi cư trú: Khu Hương C 1, xã H, huyện C, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
9, Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1980, nơi cư trú: Khu T, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
10, Chùa Sơn K xã S do chị Huỳnh Thị T, sinh năm 1983, nơi cư trú: Chùa Sơn K, khu X, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (vắng mặt).
11, Chị Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1987, nơi cư trú: Khu Đình A, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
12, Nhà thờ họ giáo X do ông Bùi Văn Y, sinh năm 1956, nơi cư trú: Khu X, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
13, Anh Đinh Công Đ, sinh năm 1974, nơi cư trú: Khu P, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
14, Trường tiểu H X do anh Lê Đức T, sinh năm 1978, nơi cư trú: Khu T2, thị trấn YL, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (vắng mặt).
15, Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979, nơi cư trú: Khu 6, xã V, huyện YL, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
16, Chùa L, xã Đ do ông Vũ Hữu C, sinh năm 1952, nơi cư trú: Khu T, xã Đ, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
17, Nhà thờ M, xã X do ông Lã Thanh H, Sinh năm 1957, nơi cư trú: Khu A1, xã X, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
18, Chùa V, xã S do chị Võ Thị Hồng M, sinh năm 1975 Nơi cư trú: Chùa V, khu Gò L, xã S, huyện C, tỉnh Phú Thọ, đại diện (vắng mặt).
19, Chị Đàm Thị T, sinh năm 1976, nơi cư trú: Khu Xuân N, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
Người có quyền lợi, N vụ liên quan:
1, Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1953, nơi cư trú: Khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
2, Anh Bùi Hữu N, sinh năm 1988, nơi cư trú: Số 49B, đường H V, phường T, thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
3, Chị Vũ Thị T, sinh năm 1976, nơi cư trú: Số nhà 19, ngõ 97, tổ 26, phường Đ, quận L, thành phố Hà Nội (vắng mặt).
4, Nhà văn hóa khu Quyết T, xã M do anh Nguyễn Công N, sinh năm 1982, nơi cư trú: Khu Quyết T, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
5, Chùa G xã M do bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1955, nơi cư trú: Khu Đ, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
6, Nhà văn hóa khu K, xã Đ do ông Đỗ Công C, sinh năm 1958, nơi cư trú:
Khu K, xã Đ, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (vắng mặt).
7, Nhà văn hóa khu T, xã Đ do anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1979, nơi cư trú: Khu T, xã Đ, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
8, Nhà văn hóa khu T, xã S do anh Đinh Xuân H, sinh năm 1981, nơi cư trú:
Khu T, xã T, huyện YL, tỉnh Phú Thọ, đại diện (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 30/5/2020, Nguyễn Văn T - sinh năm 1976 HKTT khu 5, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (Đăng ký tạm trú tại khu L, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1-591.76 màu sơn xanh vàng (Chiếc xe mô tô này T trộm cắp Đ của chị Lê Thị Kim P - sinh năm 1980 ở khu 9, xã Đ, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang ngày 16/10/2018), đi từ khu L, xã S, huyện YL đến nhà thờ M, xã X, huyện YL mục đích trộm cắp tài sản bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khi đi T đem theo 01 thanh sắt xoắn dài 25cm đường kính 02cm để làm công cụ phá khóa. Khi đến nhà thờ M, lúc này khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, T quan sát thấy nhà thờ đã tắt hết điện, các cửa nhà thờ được đóng và khóa, T dựng xe mô tô ở trước cửa sân và đi đến cửa chính dùng thanh sắt xoắn phá khóa cửa, sau đó mở cửa đi vào trong phòng thánh phát hiện có 01 cục đẩy liền nhãn hiệu PIOTON PX9000, 01 bộ vang cơ nhãn hiệu BEJG, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio IP-100 và 02 bộ thu mic không dây nhãn hiệu SHURE. T trộm cắp luôn số tài sản này đem ra buộc lên xe môtô, sau đó điều khiển xe môtô cùng tài sản trộm cắp được đi theo hướng quốc lộ 70B ra đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai để đi tiêu thụ. Trên đường đi (lúc này khoảng 2 giờ ngày 31/5/2020), T gọi điện cho Hoàng Trọng B - sinh năm 1985 ở số nhà 103, đường Nguyễn Tất Thành, phường L, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc và nói với B "Anh có một số thiết bị âm thanh, em có mua không". Do có quen biết nhau từ trước và được T gọi điện vào lúc 2 giờ sáng nên B biết đây là các tài sản T trộm cắp được nên B đồng ý mua và hẹn gặp T tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ.
Sau khi hẹn T, B điều khiển xe ôtô nhãn hiệu MITSHUBISHI LANCER màu sơn đỏ, BKS: 22L-4517 (xe ôtô B mượn của chị Vũ Thị T - sinh năm 1976 ở số nhà 19, ngõ 97, tổ 26, phường Đ, Quận L, Hà Nội từ trước) đi từ nhà ở phường L, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc đến Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Khi đến nơi gặp T; B mua của T 01 cục đẩy liền nhãn hiệu PIOTON PX9000, 01 bộ vang cơ nhãn hiệu BEJG, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio IP-100 và 02 bộ thu mic không dây nhãn hiệu SHURE với tổng giá tiền là 3.500.000đ, sau đó B mang những tài sản này về nhà. Cơ quan cảnh sát điều tra (CSĐT) đã T giữ tại nhà B ở phường L, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc những tài sản trên.
Đến 6 giờ, sáng ngày 31/5/2020, ông Lê Ngọc H - sinh năm 1963 ở khu A1 xã X, huyện YL là Trưởng ban hành giáo nhà thờ M phát hiện bị trộm cắp các tài sản nêu trên, đã trình báo Công an xã X và Công an huyện YL giải quyết.
Ngày 16/7/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá các tài sản của nhà thờ M bị trộm cắp ngày 30/5/2020. Tại kết luận định giá tài sản số: 10 ngày 16/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 bộ vang nhãn hiệu BEJG trị giá 700.000đ; 02 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE trị giá 2.000.000đ, 01 cục đẩy liền nhãn hiệu PIOTON PX9000 trị giá 3.050.000đ; 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL’S AUDIO IP-100 trị giá 700.000đ. Tổng giá trị tài sản là 6.450.000đ.
Hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn Văn T, với giá trị tài sản 6.450.000đ đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 BLHS.
Hành vi của Hoàng Trọng B, không hứa hẹn trước với T nhưng biết rõ số tài sản do T trộm cắp Đ mà có và đã mua số tài sản này của T với giá trị 3.500.000đ. Hành vi này của B đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS.
Ngoài lần trộm cắp tài sản nêu trên, quá trình điều tra Nguyễn Văn T còn tự thú khai nhận T hiện các lần trộm cắp tài sản khác trên địa bàn huyện YL; huyện C, tỉnh Phú Thọ và thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang. Cơ quan CSĐT đã chứng minh làm rõ cụ thể như sau:
Lần thứ nhất:
Ngày 16/10/2018, Nguyễn Văn T đi 01 chiếc xe đạp (Chiếc xe đạp này của T) từ huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đến thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang chơi. Khi đi qua nhà chị Lê Thị Kim P - sinh năm 1980, ở khu 9, xã Đ, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang. T phát hiện thấy trước cổng nhà chị P để 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu sơn xanh vàng, BKS: 22B1-591.76 (Chiếc xe mô tô này là của chị P), chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa, thấy không có người trông coi. T đã trộm cắp chiếc xe mô tô trên điều khiển đi về nhà, sau đó T dùng chiếc xe mô tô này làm phương tiện đi lại. Còn chiếc xe đạp T bỏ lại tại hiện trường. Hiện nay Cơ quan CSĐT đã T giữ chiếc xe đạp và chiếc xe mô tô BKS 22B1-591.76.
Đến ngày 11/8/2020, chị P được Công an thành phố Q thông báo, chị đã trình báo và đề nghị giải quyết.
Ngày 13/8/2020 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Q đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Q định giá chiếc xe mô tô BKS 22B1-591.76 do T trộm cắp ngày 16/10/2018. Tại bản kết luận định giá số 69 ngày 17/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang đã kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1-591.76 trị giá 19.300.000đ.
Lần thứ hai :
Khoảng 23 giờ ngày 22/12/2018, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đi đến Bưu điện xã M, huyện YL để trộm cắp tài sản. T đã trộm cắp được 01 màn hình máy tính và 01 case máy tính nhãn hiệu DELL. Sau khi trộm cắp được tài sản T đã đem đi tiêu thụ tại chợ đồ cũ ở Hà Nội bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ được 700.000đ. Số tiền này T đã chi tiêu cá nhân hết. Bộ máy tính này hiện nay không thu giữ được.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 Màn hình máy tính và 01 case máy tính nhãn hiệu DELL do T trộm cắp ngày 22/12/2018. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 bộ máy tính nhãn hiệu DELL (01 màn hình và 01 case máy tính) trị giá 3.000.000đ.
Lần thứ ba:
Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 08/3/2019, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô HONDA LEAD BKS: 22B1 - 591.76 đi đến nhà văn hóa khu V, xã M để trộm cắp tài sản; T đã trộm cắp được 01 chiếc âm ly nhãn hiệu BO Audio và 01 cục đẩy nhãn hiệu Guilex. Sau khi trộm cắp được tài sản T đem đi tiêu thụ, trên đường đi T thấy chiếc cục đẩy đã cũ nên đã vứt lại ở lề đường (T không nhớ cụ thể địa điểm). Còn chiếc âm ly nhãn hiệu BO Audio T bán cho ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1953 ở khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh Phú Thọ (T nói với ông H là T kinh doanh quán Karaoke, giờ không kinh doanh nữa nên bán tài sản) được 300.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết. Chiếc âm ly và 01 cục đẩy hiện nay không thu giữ được.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc âm ly nhãn hiệu BO Audio và 01 cục đẩy nhãn hiệu Guilex do T trộm cắp ngày 08/3/2019. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 chiếc âm ly nhãn hiệu BO Audio mua tháng 11/2017 trị giá 1.000.000đ và 01 cục đẩy nhãn hiệu Guilex mua tháng 11/2017 trị giá 2.200.000đ.
Tổng trị giá 3.200.000đ Lần thứ bốn:
Khoảng 20 giờ 10 phút ngày 31/7/2019, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS: 22B1 - 591.76 đến chùa L, xã Đ, huyện YL, trộm cắp được số tiền 170.000đ, 01 chiếc âm ly nhãn hiệu KENTECH và 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE. Sau khi trộm cắp được tài sản T đã đem đi tiêu thụ tại chợ đồ cũ ở Hà Nội bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ được 500.000đ. Số tiền trộm cắp được và số tiền bán tài sản, T đã chi tiêu cá nhân hết. Chiếc âm ly và bộ mic không dây hiện nay không thu giữ được.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc âm ly nhãn hiệu KENTECH và 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE do T trộm cắp ngày 31/7/2019. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 chiếc âm ly nhãn hiệu KENTECH mua năm 2014 trị giá 1.200.000đ và 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE mua năm 2014 trị giá 800.000đ. Tổng giá trị tài sản là 2.000.000đ và 170.000đ tiền mặt, tổng là 2.170.000đ.
Lần thứ năm:
Khoảng 23 giờ ngày 05/9/2019, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đến nhà thờ họ giáo X, xã S, huyện YL trộm cắp được 01 chiếc cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000 và 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE. Sau khi trộm cắp được tài sản T đã đem đi tiêu thụ tại chợ đồ cũ ở Hà Nội bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ được 800.000đ. Số tiền bán tài sản, T đã chi tiêu cá nhân hết. Chiếc cục đẩy và bộ mic không dây hiện nay không thu giữ được.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000 và 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE do T trộm cắp ngày 05/9/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000 mua cuối năm 2018 trị giá 5.000.000đ và 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE mua cuối năm 2018 trị giá 800.000đ. Tổng trị giá 5.800.000đ.
Lần thứ sáu:
Khoảng 22 giờ 20 phảiút ngày 11/11/2019, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đến nhà chị Nguyễn Thị Thúy L - sinh năm 1987 ở khu Đình A, xã S trộm cắp Đ 01 tivi nhãn hiệu SONY 49inch. Sau khi trộm cắp Đ tài sản trên, T mang bán cho Hoàng Trọng B Đ 2.500.000đ. Số tiền này T đã chi tiêu hết.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 tivi nhãn hiệu SONY 49inch do T trộm cắp ngày 11/11/2019. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận 01 chiếc tivi nhãn hiệu SONY 49inch mua tháng 12/2018 trị giá 9.000.000đ.
Lần thứ bảy:
Khoảng 16 giờ ngày 12/01/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS: 22B1 - 591.76 đến Chùa Sơn K, Thuộc khu X, xã S, huyện YL trộm cắp Đ 01 chiếc cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000. Sau khi trộm cắp được tài sản T đã đem đi tiêu thụ tại chợ đồ cũ ở Hà Nội bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ được 800.000đ. Số tiền bán tài sản, T đã chi tiêu cá nhân hết. Chiếc cục đẩy hiện không thu giữ được.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000 do T trộm cắp ngày 12/01/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận 01 cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000 mua năm 2015 trị giá 5.200.000đ.
Lần thứ tám:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/01/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đến trường tiểu học xã X, huyện YL trộm cắp Đ 01 chiếc bàn Mixer nhãn hiệu YAMAHA và 01 cục đẩy maximax PS-3600. Sau khi trộm cắp, T mang bán cho Hoàng Trọng B chiếc bàn Mixer được 1.500.000đ; cục đẩy được 1.000.000đ. Tổng 2.500.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc bàn Mixer nhãn hiệu YAMAHA và 01 cục đẩy maximax PS-3600 do T trộm cắp ngày 13/01/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận 01 chiếc bàn mixer nhãn hiệu YAMAHA mua tháng 01/2017 trị giá 1.700.000đ và 01 cục đẩy nhãn hiệu Maximax PS-3600 mua tháng 01/2017 trị giá 1.700.000đ. Tổng trị giá 3.400.000đ.
Lần thứ chín:
Khoảng 22 giờ ngày 10/5/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS: 22B1 - 591.76 đến nhà chị Nguyễn Thị H - sinh năm 1979 ở khu 6, xã V, huyện YL trộm cắp Đ 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG; 01 chiếc nồi cơm điện nhãn hiệu COOKER và 01 chiếc ấm siêu tốc nhãn hiệu SUNHOUSE. Trên đường đi về, T thấy nồi cơm điện và ấm siêu tốc đã cũ nên vứt lại dọc đường (T không nhớ cụ thể địa điểm), còn chiếc tivi SAMSUNG 49inch sau đó mang bán cho Hoàng Trọng B Đ 2.000.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết. Chiếc tivi, nồi cơm điện và ấm siêu tốc hiện nay không thu hồi được.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG; 01 chiếc nồi cơm điện nhãn hiệu COOKER và 01 chiếc ấm siêu tốc nhãn hiệu SUNHOUSE do T trộm cắp ngày 10/5/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 49inch mua năm 2019 trị giá 7.500.000đ; 01 chiếc ấm siêu tốc nhãn hiệu SUNHOUSE mua năm 2018 trị giá 50.000đ và 01 chiếc nồi cơm điện nhãn hiệu COOKER mua năm 2014 trị giá 450.000đ. Tổng trị giá: 8.000.000đ
Lần thứ mười:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/6/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đến nhà anh Hà Văn H - sinh năm 1964 ở khu 1, xã M, huyện YL trộm cắp được 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 50inch. Sau khi trộm cắp được tài sản T đã đem đi tiêu thụ tại chợ đồ cũ ở Hà Nội bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ được 1.500.000đ. Số tiền này T đã chi tiêu cá nhân hết. Chiếc tivi này hiện nay không thu giữ được.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 50inch do T trộm cắp ngày 08/6/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 50inch mua tháng 01/2020 trị giá 7.500.000đ.
Lần thứ mười một:
Khoảng 22 giờ ngày 12/06/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đến nhà anh Hoàng Văn T - sinh năm 1980 ở khu T, xã S, huyện YL trộm cắp được 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch, 01 bộ vang Cơ không rõ nhãn hiệu, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu. Sau khi trộm cắp được tài sản, T bán cho Hoàng Trọng B 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch được 1.500.000đ; 01 bộ vang cơ không rõ nhãn hiệu được 500.000đ; 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio được 500.000đ và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu được 500.000đ. Tổng 3.000.000đ, số tiền này T đã chi tiêu cá nhân hết.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch, 01 bộ vang không rõ nhãn hiệu, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu do T trộm cắp ngày 12/6/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch mua năm 2016 trị giá 4.500.000đ; 01 chiếc nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio mua năm 2018 trị giá 900.000đ; 01 bộ vang không có nhãn hiệu trị giá 800.000đ và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu mua năm 2019 trị giá 1.200.000đ. Tổng trị giá: 7.400.000đ.
Lần thứ mười hai:
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 17/6/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đến nhà anh Đinh Công Đ - sinh năm 1974 ở khu P, xã S, huyện YL trộm cắp được 01 chiếc tivi LG 43inch và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N. Sau khi trộm cắp được tài sản, T bán cho Hoàng Trọng B chiếc tivi LG 43inch được 1.000.000đ và chiếc âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N được 800.000đ. Tổng số tiền 1.800.000đ, T đã chi tiêu hết.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc tivi LG 43inch và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N do T trộm cắp ngày 17/6/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận: 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch mua năm 2019 trị giá 4.200.000đ và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N mua tháng 01/2020 trị giá 1.300.000đ. Tổng trị giá 5.500.000đ.
Lần thứ mười ba:
Khoảng 23 giờ ngày 09/7/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đến nhà chị Đàm Thị T - sinh năm 1976 ở khu Xuân N, xã M, huyện YL trộm cắp Đ 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch. Sau khi trộm cắp được tài sản, T bán cho Hoàng Trọng B được 2.000.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết.
Ngày 27/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch do T trộm cắp ngày 09/7/2020. Tại bản kết luận định giá số 25 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch mua tháng 7/2020 trị giá 4.200.000đ.
Lần thứ mười bốn:
Khoảng 20 giờ ngày 19/7/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô HONDA LEAD BKS 22B1 - 591.76 đi từ xã S, huyện YL đến nhà thờ họ giáo T Thuộc khu Đ, xã H, huyện YL, trộm cắp được 01 chiếc quạt hơi nước nhãn hiệu MIDEA AC200-17JR, màu trắng, rồi chở về nhà sử dụng. Cơ quan CSĐT đã thu hồi được chiếc quạt hơi nước tại nhà T ở khu L, xã S, huyện YL.
Ngày 10/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện YL định giá 01 chiếc tivi LG 43inch và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N do T trộm cắp ngày 19/7/2020. Tại bản kết luận định giá số 13 ngày 11/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL kết luận 01 chiếc quạt hơi nước nhãn hiệu MIDEA AC200-17JR, màu trắng tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 2.500.000đ.
Lần thứ mười năm:
Khoảng 22 giờ ngày 28/6/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe môtô HONDA LEAD BKS 22B1-591.76 từ xã S, huyện YL đến chùa V, Thuộc khu gò L, xã S, huyện C trộm cắp được 01 cục đẩy Maximax PS4800, 01 cục vang nhãn hiệu YAMAHA, 01 cục vang nhãn hiệu GA và 02 micro nhãn hiệu Shure UGX9. Sau khi trộm cắp tài sản, T mang bán cho ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1953 ở khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh Phú Thọ (T nói với ông H là T kinh doanh quán Karaoke, giờ không kinh doanh nữa nên bán tài sản) được 1.400.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết. Sau khi mua tài sản, ông H đã bán 02 cục vang và 02 micro cho một người không biết tên tuổi địa chỉ (ông H không nhớ bán được bao nhiêu tiền). Cơ quan CSĐT đã thu giữ được 01 cục đẩy tại nhà ông H, còn 02 cục vang và 02 micro hiện nay không không thu giữ được.
Ngày 28/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C định giá 01 cục đẩy Maximax PS4800, 01 cục vang nhãn hiệu YAMAHA, 01 cục vang nhãn hiệu GA và 02 micro nhãn hiệu Shure UGX9 do T trộm cắp ngày 28/6/2020. Tại bản kết luận định giá số 42 ngày 31/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện C kết luận 01 cục đẩy Maximax PS4800 trị giá 3.500.000đ, 01 cục vang nhãn hiệu YAMAHA trị giá 600.000đ, 01 cục vang nhãn hiệu GA trị giá 600.000đ và 02 micro nhãn hiệu Shure UGX9 trị giá 200.000đ. Tổng trị giá là 4.900.000đ.
Lần thứ mười sáu:
Khoảng 20 giờ 00 ngày 15/7/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe môtô HONDA LEAD BKS 22B1-591.76 đi từ xã S, huyện YL đến nhà thờ sứ Hương C, Thuộc khu Hương C 2, xã H, huyện C trộm cắp Đ 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL, sau đó T bán cho Hoàng Trọng B 01 đàn organ được 2.000.000đ; 01 laptop được 1.500.000đ, tổng 3.500.000đ, số tiền này T đã chi tiêu cá nhân hết.
Ngày 28/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C định giá 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL do T trộm cắp ngày 15/7/2020. Tại bản kết luận định giá số 44 ngày 28/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện C kết luận 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA trị giá 7.000.000đ và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL trị giá 3.500.000đ. Tổng trị giá 10.500.000đ.
Lần thứ mười bảy :
Khoảng 15 giờ 00 ngày 28/7/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe môtô HONDA LEAD BKS 22B1-591.76 đến nhà ông Nguyễn Địch Đ - sinh năm 1963 ở khu 1 M, xã T, huyện C trộm cắp Đ 01 chiếc ti vi nhãn hiệu SAMSUNG màu đen màn hình phẳng loại 55inch; 01 chiếc điều khiển ti vi; 01 chiếc chăn len màu đỏ. Trên đường đi, T đã vứt chiếc chăn bên lề đường (T không nhớ cụ thể địa điểm), còn tivi và điều khiển tivi T mang bán cho Hoàng Trọng B được 3.500.000đ, số tiền này T đã chi tiêu cá nhân hết.
Ngày 31/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C định giá 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL do T trộm cắp ngày 15/7/2020. Tại bản kết luận định giá số 43 ngày 01/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện C kết luận 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 55inch trị giá 12.800.000đ, 01 điều khiển tivi trị giá 500.000đ, 01 chiếc chăn len màu đỏ trị giá 300.000đ. Tổng trị giá 13.600.000đ.
Lời khai nhận tội nêu trên của Nguyễn Văn T phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng, địa điểm T xác định trộm cắp và vật chứng thu giữ được trong quá trình điều tra và kết luận định giá tài sản.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ ngày 16/10/2018 đến ngày 28/7/2020, tại địa bàn huyện YL; huyện C, tỉnh Phú Thọ và thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn T đã thực hiện 18 lần trộm cắp tài sản; giá trị tài sản trộm cắp từng lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phảiạm “Trộm cắp tài sản". Tổng giá trị tài sản T đã trộm cắp là 121.620.000đ; đủ định lượng, định khung để xử lý trách nhiệm hình sự về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm c khoản 2 điều 173 BLHS.
Trong vụ án này: Quá trình điều tra làm rõ Nguyễn Văn T còn T hiện 5 lần trộm cắp tài sản; Giá trị tài sản trộm cắp từng lần Đ định giá dưới 2.000.000đ, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 16 giờ, ngày 08/10/2019, T trộm cắp 01 Âm ly Jarguar tại nhà văn hóa khu Quyết T, xã M, huyện YL tỉnh Phú Thọ. Giá trị chiếc âm ly được định giá xác định trị giá 1.300.000đ. Sau khi trộm cắp được, T bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ tại chợ đồ cũ ở Hà Nội được 500.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết. Hiện nay chiếc âm ly này không thu giữ được để trả cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Công N, sinh năm 1982 ở khu Quyết T, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ. Anh N yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị mất.
Lần thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 08/10/2019, T trộm cắp tài sản tại Chùa Giáp Khế, xã M, huyện YL 01 Âm ly Jarguar và 01 Đầu đĩa DVD California. Giá trị 01 Âm ly Jarguar và 01 Đầu đĩa DVD California Đ định giá xác định tổng giá trị 1.600.000đ. Sau khi trộm cắp Đ, T vứt Đầu đĩa DVD California bên lề đường (T không xác định Đ vị trí), còn chiếc Âm ly Jarguar T bán cho ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1953 ở khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh Phảiú Thọ Đ 300.000đ (T nói với ông H là T kinh doanh quán Karaoke, giờ không kinh doanh nữa nên bán tài sản), số tiền này T đã chi tiêu hết. Sau khi mua Đ tài sản ông H đã bán cho một người T mua sắt vụn không biết tên tuổi, địa chỉ (ông H không nhớ bán Đ bao nhiêu tiền). Chiếc Âm ly Jarguar và Đầu đĩa DVD California hiện nay không T giữ Đ để trả cho người đại diện quản lý tài sản là bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1955 ở khu Đ, xã M, huyện YL, tỉnh Phú Thọ. Bà V yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị mất.
Lần thứ ba: Khoảng 22 giờ, ngày 14/10/2019, T trộm cắp tài sản tại nhà văn hóa khu K, xã Đ, huyện YL 01 âm ly Arirang. Giá trị 01 chiếc âm ly này được định giá xác định trị giá 1.200.000đ. Sau khi trộm cắp được, do thấy âm ly cũ nên T đã vứt xuống lề đường (T không xác định được vị trí). Chiếc âm ly hiện nay không thu giữ được để trả cho chủ sở hữu là ông Đỗ Công C, sinh năm 1958 ở khu K, xã Đ, huyện YL, tỉnh Phú Thọ. Ông N yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị mất.
Lần thứ bốn: Khoảng 21 giờ, ngày 30/10/2019, T trộm cắp tại nhà văn hóa khu T, xã Đ, huyện YL 01 chiếc âm ly Jarguar. Giá trị 01 chiếc âm ly này được định giá xác định trị giá 1.300.000đ. Sau khi trộm cắp được, T bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ tại chợ đồ cũ ở Hà Nội được 300.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết. Hiện nay chiếc âm ly này không T giữ được để trả cho người đại diện quản lý tài sản là anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1979 ở khu T, xã Đ, huyện YL, tỉnh Phú Thọ. Anh L yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị mất.
Lần thứ năm: khoảng 20 giờ ngày 26/3/2020, T trộm cắp tại nhà văn hóa khu T, xã T, huyện YL 01 âm ly NANOMAX Pro568E. Giá trị 01 chiếc âm ly này được định giá xác định trị giá 1.700.000đ. Sau khi trộm cắp được, T bán cho ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1953 ở khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh Phú Thọ (T nói với ông H là T kinh doanh quán Karaoke, giờ không kinh doanh nữa nên bán tài sản) được 300.000đ, số tiền này T đã chi tiêu hết. Hiện nay chiếc âm ly này đã được thu giữ. Người đại diện quản lý tài sản là anh Đinh Xuân H, sinh năm 1981 ở khu T, xã T, huyện YL, tỉnh Phú Thọ. Anh H không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.
Giá trị tài sản của từng lần trộm cắp này đều dưới 2.000.000đ và không liên tục về mặt thời gian, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; Tài sản bị trộm cắp không phải là phương tiện kiếm sống chính của bị hại và gia đình bị cáo; Không phải là di vật, cổ vật nên hành vi trộm cắp tài sản các lần này của T không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó Cơ quan CSĐT chuyển Công an huyện YL xử lý hành chính đối với T về hành vi này là phảiù hợp. Về trách nhiệm dân sự, các bị hại yêu cầu T phải bồi thường nên Đ xem xét giải quyết cùng trong vụ án hình sự này là phù hợp.
Ngoài ra, T còn khai nhận:
Ngày 3/8/2018 T trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA VISION màu trắng BKS: 22F1-109.87 tại tổ 11/9 thị trấn V Lộc, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Q. Hành vi này Cơ quan CSĐT Công an huyện YL chuyển Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang giải quyết theo thẩm quyền (Vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm ngày 31/12/2020, hiện nay án chưa có hiệu lực pháp luật).
Khoảng đầu năm 2019, tại thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc, T chiếm đoạt của một người phảiụ nữ, T không biết tên, tuổi và địa chỉ 01 chiếc xe HONDA Wave α, màu sơn xanh, T không nhớ BKS, bên trong cốp xe có 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại màn hình cảm ứng, 01 thẻ ATM và số tiền 4.900.000đ. Cơ quan CSĐT Công an huyện YL chuyển hành vi này cho Công an thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc giải quyết theo thẩm quyền (Hiện nay cơ quan điều tra Công an thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc chưa làm rõ).
Khoảng đầu tháng 7/2020; T trộm cắp của 01 nhà dân ở trên đường Quốc Lộ 32C thuộc xã M, huyện H (T không nhớ C xác nhà ai), 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 32inch. Cơ quan CSĐT Công an huyện YL chuyển hành vi này cho Cơ quan CSĐT Công an huyện H, tỉnh Phú Thọ giải quyết theo thẩm quyền (Hiện nay Cơ quan CSĐT Công an huyện H chưa làm rõ).
Đối với Hoàng Trọng B, ngoài lần phạm tội nêu trên, quá trình điều tra B còn khai nhận, B làm nghề T mua đồ điện tử cũ, B không hứa hẹn trước với Nguyễn Văn T nhưng do quen biết với T nên mỗi lần được T gọi điện nói bán các tài sản thì B đều biết các tài sản là do T trộm cắp được mà có. T bán với giá rẻ nên B mua về để bán kiếm lời, cụ thể B đã mua tài sản của T trộm cắp được các lần như sau:
Lần thứ nhất:
Ngày 12/11/2019, tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 tivi nhãn hiệu SONY 49inch với giá 2.500.000đ (Chiếc ti vi này T trộm cắp của gia đình chị Nguyễn Thị Thúy L ở khu Đình A xã S, huyện YL, trị giá chiếc tivi được định giá 9.000.000đ). Sau khi mua được tivi, B đã bán lại cho một người, B không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể được số tiền 4.000.000đ, T lời 1.500.000đ. Chiếc tivi SONY 49inch hiện nay không thu hồi được.
Lần thứ hai :
Ngày 14/01/2020, tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 chiếc bàn Mixer nhãn hiệu YAMAHA với giá 1.500.000đ và 01 cục đẩy Maximac PS3600 với giá 1.000.000đ (Tài sản này T trộm cắp được tại trường Tiểu H X, huyện YL; 01 chiếc bàn Mixer nhãn hiệu YAMAHA được định giá 1.700.000đ và 01 cục đẩy nhãn hiệu Maximax PS-3600 được định giá 1.700.000đ. Tổng trị giá 3.400.000đ). Sau khi mua được hai loại tài sản này, B đã bán 01 chiếc cục đẩy nhãn hiệu Maximax PS- 3600 cho một người, B không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể được số tiền 1.500.000đ, thu lời 500.000đ. Còn chiếc 01 chiếc bàn Mixer nhãn hiệu YAMAHA, B vẫn để ở nhà B, đã được Cơ quan điều tra thu giữ.
Lần thứ ba:
Ngày 11/5/2020, tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG với giá 2.000.000đ (Chiếc ti vi này, T trộm cắp của gia đình chị Nguyễn Thị H ở khu 6, xã V, huyện YL, trị giá chiếc ti vi này được định giá 7.500.000đ). Sau khi mua được chiếc ti vi này B đã bán lại cho một người, B không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể được số tiền 3.000.000đ, thu lời 1.000.000đ. Chiếc tivi trên hiện nay không thu hồi được.
Lần thứ bốn:
Ngày 13/06/2020, tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch với giá 1.500.000đ; 01 bộ vang Cơ không rõ nhãn hiệu giá 500.000đ; 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio giá 500.000đ và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu giá 500.000đ (Đây là tài sản T trộm cắp được của gia đình anh Hoàng Văn T ở khu T, xã S, huyện YL; 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch được định giá 4.500.000đ; 01 chiếc nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio được định giá 900.000đ; 01 bộ vang không có nhãn hiệu được định giá 800.000đ và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu được định giá trị giá 1.200.000đ. Tổng trị giá:
7.400.000đ). Sau khi mua được bốn loại tài sản này; B đã bán 01 bộ vang Cơ không rõ nhãn hiệu, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio cho một người B không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể được số tiền 1.500.000đ, thu lời 500.000đ. Còn chiếc tivi NEO 50inch và cục đẩy, B vẫn để ở nhà B, đã được Cơ quan điều tra thu giữ.
Lần thứ năm:
Ngày 18/6/2020, tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 chiếc tivi LG 43inch với giá 1.000.000đ và 01 chiếc Âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N với giá 800.000đ (Đây là tài sản T trộm cắp được của gia đình anh Đinh Công Đ ở khu P, xã S, huyện YL; 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch được định giá 4.200.000đ và 01 chiếc Âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N được định giá 1.300.000đ. Tổng trị giá 5.500.000đ). Sau khi mua được các tài sản này; B đã bán 01 chiếc tivi LG 43inch cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể được số tiền 3.500.000, thu lời 2.500.000đ. Còn 01 chiếc Âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N, B vẫn để ở nhà B, đã được Cơ quan điều tra thu giữ.
Lần thứ sáu:
Ngày 10/7/2020, tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch với giá 2.000.000đ (Chiếc ti vi này T trộm cắp của gia đình chị Đàm Thị T ở khu Xuân N, xã M, huyện YL, chiếc ti vi này được định giá 4.200.000đ). Sau khi mua được chiếc ti vi này; B đã bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể được số tiền 3.000.000đ, T lời 1.000.000đ. Chiếc tivi trên hiện nay không thu hồi được.
Lần thứ bảy:
Ngày 16/7/2020 tại Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Thuộc khu 4, xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA với giá 2.000.000đ và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL với giá 1.500.000đ (đây là tài sản T trộm cắp được tại nhà thờ sứ Hương C, Thuộc khu Hương C 2 xã H, huyện C, 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA Đ định giá 7.000.000đ và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL được định giá 3.500.000đ. Tổng trị giá 10.500.000đ).
Sau khi mua được các tài sản này, B đã bán 01 chiếc đàn Organ nhãn hiệu YAMAHA cho anh Bùi Hữu N - sinh năm 1988, HKTT: Số nhà 49B, đường H V, phường T, thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc với số tiền 5.500.000đ (Khi anh N mua chiếc đàn organ, anh N không biết đây là tài sản do phạm tội mà có), T lời 3.500.000đ. Còn 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL, B vẫn để ở nhà B. Hiện nay 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL và 01 chiếc đàn organ nhẫn hiệu YAMAHA đã được Cơ quan điều tra thu giữ .
Lần thứ tám:
Ngày 28/7/2020 Km 98 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Thuộc khu 4 xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ, B mua của Nguyễn Văn T 01 chiếc ti vi nhãn hiệu SAMSUNG màu đen màn hình phẳng loại 55inch và 01 điều khiển tivi với giá 3.500.000đ (Đây là tài sản T trộm cắp Đ của gia đình ông Nguyễn Địch Đ ở khu 1 M, xã T, huyện C, chiếc ti vi này Đ định Đ định giá 12.800.000đ, chiếc điều khiển tivi Đ định giá 500.000đ. Tổng trị giá 12.500.000đ). Sau khi mua được chiếc Ti vi và điều khiển này, B đã bán cho một người không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể được số tiền 5.000.000đ, thu lời 1.500.000đ. Chiếc tivi và điều khiển tivi hiện nay không thu hồi được.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền Công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm cáo trạng truy tố, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo Hoàng Trọng B đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự, theo bản Cáo trạng số 01/CT-VKSYL-HS ngày 16/12/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ.
a) Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS:
Xử phảiạt Nguyễn Văn T từ 36 đến 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/8/2020.
Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 36 BLHS, Xử phạt Hoàng Trọng B từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 06 ngày tạm giữ quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo tính từ ngày tính từ ngày Cơ quan được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
+ Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo do các bị cáo không có thu nhập, tài sản gì.
Khấu trừ 10% thu nhập đối với bị cáo Hoàng Trọng B là 400.000đ/tháng trong thời gian thi hành án cải tạo không giam giữ.
Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự;
Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ đối với bị cáo Hoàng Trọng B.
- Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự theo quy định pháp luật.
- Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 3.763.500đ án phí dân sự trong án hình sự.
b) Về trách nhiệm dân sự: áp dụng điều 48 BLHS, điều 589 Bộ luật Dân sự.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Bưu điện xã M, huyện YL do chị Nguyễn Thị Bích N - sinh năm 1982 ở khu 5, xã M, huyện YL đại diện, số tiền 3.000.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Ông Hà Văn H - sinh năm 1964 ở khu 1, xã M, huyện YL, số tiền 7.500.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Nhà văn hóa khu V, xã M, huyện YL do anh Nguyễn Thành S - sinh năm 1979, trưởng khu đại diện, số tiền 3.200.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho nhà văn hóa khu Quyết T, xã M, huyện YL do anh Nguyễn Công N - sinh năm 1982, Trưởng khu đại diện, số tiền 1.300.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho chị Đàm Thị T - sinh năm 1976 ở khu Xuân N, xã M, huyện YL, số tiền 4.200.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa Giáp Khế, xã M, huyện YL do bà Nguyễn Thị V - sinh năm 1955 ở khu Đ, xã M, huyện YL đại diện, số tiền 1.600.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa Sơn K, xã S, huyện YL do chị Huỳnh Thị T - sinh năm 1983 ở khu X, xã S, huyện YL đại diện, số tiền 5.200.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thúy L - sinh năm 1987 ở khu Đình A, xã S, huyện YL, số tiền 9.000.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho anh Hoàng Văn T - sinh năm 1980 ở khu T, xã S, huyện YL, số tiền 1.700.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho anh Đinh Công Đ - sinh năm 1974 ở khu P, xã S, huyện YL, số tiền 4.200.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Nhà thờ họ giáo X, xã S, huyện YL do ông Bùi Văn Y - sinh năm 1956 ở khu X, xã S, huyện YL đại diện, số tiền 5.800.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Trường tiểu H X, huyện YL do anh Lê Đức T - sinh năm 1978 ở khu T2, Thị trấn YL, huyện YL là hiệu trưởng đại diện, số tiền 1.700.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị H - sinh năm 1979 ở khu 6, xã V, huyện YL, số tiền 8.000.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Nhà văn hóa khu T, xã Đ, huyện YL do anh Nguyễn Ngọc L - sinh năm 1979 trưởng khu đại diện, số tiền 1.300.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa L, Thuộc khu T, xã Đ do ông Vũ Hữu C - sinh năm 1952 ở khu T, xã Đ, huyện YL, trưởng ban hộ tự chùa đại diện, số tiền 2.170.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Nhà văn hóa khu K, xã Đ, huyện YL do ông Đỗ Công C - sinh năm 1958 ở trưởng khu đại diện, số tiền 1.200.000đ.
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho ông Nguyễn Địch Đ - sinh năm 1963 ở khu 1, M, xã T, huyện C số tiền 12.800.000đ. - Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa V, xã S, huyện C do bà Võ Thị Hồng M - sinh năm 1975, trụ trì chùa đại diện, số tiền 1.400.000đ.
- Xác nhận B đã bồi thường cho anh N số tiền 5.500.000đ.
c) Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.
- Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 11.300.000đ là tiền do T phạm tội mà có.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 12.000.000đ do Hoàng Trọng B phạm tội mà có.
- Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 105 T của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động Apple Iphảione 6s của Hoàng Trọng B - Tịch thu tiêu hủy 01 đục bằng sắt xoắn đường kính 02cm, dài 25cm; 01 dây chun cao su dài 2,5m, đầu dây có 02 móc bằng kim loại (là phương tiện T dùng vào việc trộm cắp tài sản) - Trả lại cho Nguyễn Văn T 01 xe đạp nhãn hiệu Thống Nhất màu xanh; 01 cặp sách màu đen, 01 ống tuýp dài 45cm, đường kính 03cm; 01 chiếc liềm; 01 chiếc kéo sắt có bọc nhựa màu xanh ở tay cầm, 01 mỏ lết loại 375*46; 01 dao có vỏ bao gỗ dài 30cm (kiểu dân thuộc); 01 kìm có tay cầm bọc nhựa màu vàng, 03 tua vít, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả những tài sản sau:
+ Trả 01 xe oto MITSHUBISHI LANCER màu sơn Đỏ, BKS: 22L-4517 cho chị Vũ Thị T - sinh năm 1976 ở tổ 26, phường Đ, Quận L, Hà Nội nhận.
+ Trả 01 xe mô tô Honda LEAD màu xanh vàng, BKS: 22B1-591.76 cho chị Lê Thị Kim P - sinh năm 1980 Thuộc khu 9, xã Đ, thành phố Q, tỉnh Q nhận.
+ Trả 02 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE, 01 cục đẩy liền nhãn hiệu PIOTON, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL’S AUDIO IP-100 cho nhà thờ M, xã X, huyện YL do ông Lê Ngọc H - sinh năm 1963, Trưởng ban hành giáo đại diện nhận.
+Trả 01 Quạt hơi nước MEDIA cho nhà thờ T, xã H, do ông Lê Doanh D - sinh năm 1966, Phó ban hành giáo đại diện nhận.
+ Trả 01 tivi nhãn hiệu NEO 50inch; 01 cục đẩy không nhãn hiệu cho anh Hoàng Văn T - sinh năm 1980 ở khu T, xã S, huyện YL nhận.
+ Trả 01 Âm ly Jarguar cho anh Đinh Công Đ - sinh năm 1974 ở khu P, xã S, huyện YL nhận.
+ Trả 01 Mixer YAMAHA cho Trường tiểu H X do anh Lê Đức T - sinh năm 1978, hiệu trưởng nhà trường đại diện nhận.
+ Trả 01 cục đẩy Maximax PS4800 cho Chùa V, khu Gò L, xã S, huyện C do chị Võ Thị Hồng M - sinh năm 1975, Trụ trì chùa đại diện nhận.
+ Trả 01 Đàn YAMAHA, 01 Laptop DELL cho Chùa Hương C, xã H, huyện C do anh Nguyễn Quang T - sinh năm 1973, Trụ trì chùa đại diện nhận.
+ Trả 01 Âm ly NANOMAX Pro568E cho Nhà văn hóa khu T, xã T, huyện YL do anh Đinh Xuân H - sinh năm 1981, Trưởng khu nhận.
Các Bị cáo không tranh luận gì về tội danh cũng như mức án mà Kiểm sát viên đề nghị với Hội đồng xét xử.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ.
Các Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo T: Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.
Bị cáo B: Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất và được cải tạo ngoài xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Nguyễn Văn T và Hoàng Trọng B đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm pháp luật của mình như nội dung bản cáo trạng đã kết luận: Ngày 16/10/2018 tại xã Đ, thành phố Q, tỉnh Q , Nguyễn Văn T - sinh năm 1976 HKTT khu 5, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (Đăng ký tạm trú tại khu L, xã S, huyện YL, tỉnh Phú Thọ) trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu sơn Xanh, BKS: 22B1-591.76 trị giá 19.300.000đ của chị Lê Thị Kim P - sinh năm 1980 ở khu 9, xã Đ, thành phố Q, tỉnh Q, nay là tổ 10, phường P, thành phố Q, tỉnh Q.
Ngày 22/12/2018, tại xã M, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 bộ máy vi tính nhãn hiệu DELL (01 màn máy tính và 01 case máy tính) trị giá 3.000.000đ của bưu điện xã M, huyện YL.
Ngày 08/3/2019 tại xã M, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc Âm ly nhãn hiệu BO Audio trị giá 1.000.000đ và 01 cục đẩy nhãn hiệu Guilex trị giá 2.200.000đ, tổng trị giá tài sản là 3.200.000đ của nhà văn hóa khu V, xã M, huyện YL.
Ngày 31/7/2019 tại xã Đ, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp số tiền 170.000đ, 01 chiếc Âm ly nhãn hiệu KENTECH trị giá 1.200.000 đồng; 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE trị giá 800.000, tổng trị giá tài sản là 2.170.000đ của Chùa L, xã Đ, huyện YL.
Ngày 05/9/2019, tại xã S, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000 trị giá 5.000.000đ và 01 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE trị giá 800.000đ, tổng trị giá tài sản là 5.800.000đ tại nhà thờ họ giáo X, xã S, huyện YL.
Ngày 11/11/2019, tại xã S, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 tivi nhãn hiệu SONY 49inch trị giá 9.000.000đ của chị Nguyễn Thị Thúy L - sinh năm 1987 ở khu Đình A xã S, huyện YL.
Ngày 12/01/2020, tại xã S, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc cục đẩy nhãn hiệu PIOTON PX9000 trị giá 5.200.000đ tại Chùa Sơn K, thuộc khu X, xã S, huyện YL.
Ngày 13/01/2020, tại xã X, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc bàn Mixer nhãn hiệu YAMAHA trị giá 1.700.000đ và 01 cục đẩy maximas PS-3600 trị giá 1.700.000đ, tổng trị giá tài sản là 3.400.000đ tại trường Tiểu H xã X, huyện YL.
Ngày 10/5/2020, tại xã V, huyện YL, Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 49 inch trị giá 7.500.000đ; 01 chiếc nồi cơm điện nhãn hiệu COOKER trị giá 450.000đ và 01 chiếc ấm siêu tốc nhãn hiệu SUNHOUSE trị giá 50.000đ, tổng trị giá tài sản là 8.000.000đ của chị Nguyễn Thị H - sinh năm 1979 ở khu 6, xã V, huyện YL.
Ngày 30/5/2020, tại xã X, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 cục đẩy liền nhãn hiệu PIOTON PX9000 trị giá 3.050.000đ, 01 bộ vang cơ nhãn hiệu BEJG trị giá 700.000đ, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio IP-100 trị giá 700.000đ và 02 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE trị giá 2.000.000đ, tổng trị giá tài sản 6.450.000đ tại Nhà thờ M xã X, huyện YL.
Ngày 08/6/2020, tại xã M, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG 50inch trị giá 7.500.000đ của ông Hà Văn H - sinh năm 1964 ở khu 1, xã M, huyện YL.
Ngày 12/06/2020, tại xã S, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch trị giá 4.500.000đ, 01 bộ vang không rõ nhãn hiệu trị giá 800.000đ, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio trị giá 900.000đ và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu trị giá 1.200.000đ, tổng trị giá tài sản là 7.400.000đ của anh Hoàng Văn T - sinh năm 1980 ở khu T, xã S, huyện YL.
Ngày 17/6/2020, tại xã S, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc tivi LG 43inch trị giá 4.200.000đ và 01 chiếc Âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N trị giá 1.300.000đ, tổng trị giá tài sản là 5.500.000đ của anh Đinh Công Đ - sinh năm 1974 ở khu P, xã S, huyện YL.
Ngày 09/7/2020, tại xã M, huyện YL, Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch trị giá 4.200.000đ của chị Đàm Thị T - sinh năm 1976 ở khu Xuân N, xã M, huyện YL.
Ngày 19/7/2020, tại xã H, huyện YL; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc quạt hơi nước nhãn hiệu MIDEA AC200-17JR trị giá 2.500.000đ của nhà thờ họ giáo T Thuộc Khu Đồng Bành, xã H, huyện YL.
Ngày 28/6/2020, tại xã S, huyện C; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 cục đẩy Maximax PS4800 trị giá 3.500.000đ, 01 cục vang nhãn hiệu YAMAHA trị giá 600.000đ, 01 cục vang nhãn hiệu GA trị giá 600.000đ và 02 micro nhãn hiệu Shure UGX9 trị giá 200.000đ, tổng trị giá tài sản là 4.900.000đ của chùa V, thuộc khu Gò L, xã S, huyện C.
Ngày 15/7/2020, tại xã Hhuyện C; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA trị giá 7.000.000đ và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL trị giá 3.500.000đ, tổng trị giá tài sản là 10.500.000đ tại nhà thờ sứ Hương C Thuộc khu Hương C 2 xã H, huyện C.
Ngày 28/7/2020, tại xã T, huyện C; Nguyễn Văn T trộm cắp 01 chiếc ti vi nhãn hiệu SAMSUNG màn hình phẳng loại 55inch trị giá 12.800.000đ; 01 chiếc điều khiển ti vi trị giá 500.000đ; 01 chiếc chăn len màu đỏ trị giá 300.000đ, tổng trị giá tài sản là 13.600.000đ của ông Nguyễn Đình Đ - sinh năm 1963 ở khu 1 M, xã T, huyện C.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ ngày 16/10/2018 đến ngày 28/7/2020, tại địa bàn huyện YL, huyện C, tỉnh Phú Thọ và thành phố Q, tỉnh Q; Nguyễn Văn T đã thực hiện 18 lần trộm cắp tài sản; Giá trị tài sản trộm cắp từng lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Trộm cắp tài sản”. Tổng giá trị tài sản T đã trộm cắp là 121.620.000đ;
Số tiền T bán tài sản trộm cắp thu được là 31.700.000đ. Trong đó số tài sản đã thu hồi được giá trị là 12.300.000đ (tài sản của ông H trị giá 1.000.000đ, tài sản của B trị giá 11.300.000đ). Còn số tài sản không thu hồi được giá trị là 19.400.000đ.
Ngày 12/11/2019, Hoàng Trọng B - sinh năm 1985 ở số nhà 103, đường Nguyễn Tất Thành, phường L, thành phố V Y, tỉnh V Phúc đã tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp được mà có 01 tivi nhãn hiệu SONY 49 inch trị giá 9.000.000đ, với giá 2.500.000đ. Sau đó bán được 4.000.000đ, thu lời 1.500.000đ.
Ngày 14/01/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp được mà có 01 chiếc bàn Mixer nhãn hiệu YAMAHA trị giá 1.700.000đ với giá 1.500.000đ và 01 cục đẩy maximax PS-3600 trị giá 1.700.000đ với giá 1.000.000đ. Sau đó, B bán cục đẩy maximax PS-3600 Đ số tiền 1.500.000đ, thu lời 500.000đ.
Ngày 11/5/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp được mà có 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG trị giá 7.500.000đ, với giá 2.000.000đ. Sau đó, B bán được số tiền 3.000.000đ, thu lời 1.000.000đ.
Ngày 31/5/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp được mà có 01 bộ vang nhãn hiệu BEJG trị giá 700.000đ; 02 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE trị giá 2.000.000đ, 01 cục đẩy liền nhãn hiệu PIOTON PX9000 trị giá 3.050.000đ; 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL’S AUDIO IP-100 trị giá 700.000đ. Tổng trị giá tài sản là 6.450.000đ, với giá 3.500.000đ (B chưa bán những tài sản trên).
Ngày 13/06/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản Nguyễn Văn T trộm cắp được mà có 01 chiếc tivi cường lực nhãn hiệu NEO 50inch trị giá 4.500.000đ với giá 1.500.000đ; 01 chiếc nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio trị giá 900.000đ với giá 500.000đ; 01 bộ vang không có nhãn hiệu trị giá 800.000đ với giá 500.000đ và 01 cục đẩy không có nhãn hiệu trị giá 1.200.000đ với giá 500.000đ. Sau đó, B đã bán 01 bộ vang cơ không rõ nhãn hiệu, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL'S Audio được số tiền 1.500.000đ, thu lời 500.000đ.
Ngày 18/6/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp được mà có 01 chiếc tivi LG 43inch trị giá 4.200.000đ với giá 1.000.000đ và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Jarguar PA-203N trị giá 1.300.000đ với giá 800.000đ. Sau đó, B bán chiếc tivi LG 43inch được số tiền 3.500.000đ, thu lời 2.500.000đ.
Ngày 10/7/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp được mà có 01 chiếc tivi nhãn hiệu LG 43inch trị giá 4.200.000đ, với giá giá 2.000.000đ. Sau đó, B bán được số tiền 3.000.000đ, thu lời 1.000.000đ.
Ngày 16/7/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp Đ mà có 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA trị giá 7.000.000đ với giá 2.000.000đ và 01 chiếc laptop màu đen nhãn hiệu DELL trị giá 3.500.000đ với giá 1.500.000đ. Sau đó, B bán chiếc đàn Organ được số tiền 5.500.000đ, thu lời 3.500.000đ.
Ngày 28/7/2020, Hoàng Trọng B tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp Đ mà có 01 chiếc tivi nhãn hiệu SAMSUNG màn hình phẳng loại 55inch trị giá 12.000.000đ với giá 3.500.000đ. Sau đó, B bán được số tiền 5.000.000đ, thu lời 1.500.000đ.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ ngày 16/10/2018 đến ngày 28/7/2020; Hoàng Trọng B đã thực hiện 9 lần tiêu thụ tài sản do T trộm cắp được mà có. Hành vi tiêu thụ tài sản mỗi lần của B đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm; Tổng tài sản, vật phạm pháp có giá trị là 66.750.000đ; B đã mua của T với tổng số tiền 24.300.000đ. Sau đó đem bán một số tài sản thu được 27.000.000đ, còn một số tài sản chưa bán được, số tiền thu lời 12.000.000đ.
[2] Sự khai nhận trên hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan CSĐT và các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Tổng giá trị tài sản Nguyễn Văn T đã trộm cắp là 121.620.000đ. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 điều 173 BLHS.
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội Thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
......
đồng”
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 Hành vi của Hoàng Trọng B đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo khoản 1 điều 323 BLHS.
1. “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân vì tài sản hợp pháp của mọi công dân đều được pháp luật bảo vệ. Bị cáo T có động cơ, mục đích phạm tội là vụ lợi, thấy sự sơ hở, mất cảnh giác của người dân, người được giao quản lý tài sản nên đã nảy sinh lòng tham muốn trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Bị cáo B chỉ vì lợi nhuận, chênh lệch lớn trong việc mua, bán tiêu thụ tài sản do T trộm cắp được. Vì vậy cần phải xử lý các bị cáo nghiêm khắc trước pháp luật.
[4] Xét nhân thân các bị cáo thấy rằng: Bị cáo T có nhân thân xấu đã nhiều lần phạm tội bị xét xử, nhưng không lấy đó làm bài học để sửa chữa, làm ăn lương thiện mà tiếp tục phạm tội. Bị cáo lần đầu phạm tội. Do vậy khi áp dụng hình phạt cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Đối với Nguyễn Văn T thực hiện 18 lần trộm cắp tài sản, Hoàng Trọng B thực hiện 9 lần tiêu thụ tài sản cho người khác phạm tội mà có. T và B đều không sử dụng tài sản phạm tội, tiền thu lời bất chính làm nghề sinh sống và không lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính vì T đi mua, bán gà chọi và ở tạm trú tại xã S, còn B có nghề buôn bán và sửa chữa điện tử, điện dân dụng tại gia đình. Nên không xem xét trách nhiệm hình sự đối với T và B về hành vi thực hiện tội phạm có “Tính chất chuyên nghiệp”. Xong mỗi lần thực hiện hành vi phạm tội của T và B đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên các bị cáo T và B phải chịu 1 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 BLHS là “Phạm tội 02 lần trở lên”.
Bị cáo Nguyễn Văn T bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Q xử phạt bị cáo 1 năm 5 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 81/2020/HS-ST ngày 31/12/2020. Bản án hiện nay chưa có hiệu lực phảiáp luật. Khi nào các Bản án có hiệu lực pháp luật sẽ được tổng hợp theo quy định.
+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn nhận tội và tự khai báo đầy đủ các vụ án thực hiện trước đây chưa bị phát hiện điều tra, truy tố. Nên bị cáo được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1 điều 51 BLHS là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tự thú.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo bị cáo Hoàng Trọng B đã thành khẩn nhận tội, tự nguyện bồi thường giá trị tài sản cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và mẹ đẻ bị cáo là Đinh Thị Hiền được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất năm 1997. Nên bị cáo được hưởng 3 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS là tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Gia đình có công với cách mạng.
[5] Từ những phân tích trên đây: Hội đồng xét xử thấy rằng không thể cho bị cáo T được cải tạo tại cộng đồng, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thích hợp nhằm cải tạo, giáo dục để bị cáo sớm trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội. Xem xét cho bị cáo B được cải tạo ngoài xã hội có sự giám sát của gia đình và chính quyền địa phảiương cũng đủ để bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự có quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.
Tại khoản 5 Điều 323 Bộ luật hình sự có quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Tại các biên bản xác minh tài sản và tại phiên tòa đã xác định: Các bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp.
Đối với bị cáo B làm nghề buôn bán, sửa chữa điện tử, điện dân dụng tại gia đình có mức thu nhập bình quân từ 4.000.000đ đến 5.000.000đ/tháng. Do vậy khi xử phạt bị cáo án cải tạo không giam giữ cần khấu trừ 10% thu nhập/tháng trong thời gian chấp hành án, để sung quỹ nhà nước.
[7] Về vật chứng vụ án và trách nhiệm dân sự: Đối với những tài sản các bị cáo trộm cắp và tiêu thụ tài sản đã được Cơ quan CSĐT T hồi và trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp cần xác nhận. Đối với những tài sản không thu hồi được cần buộc bị cáo T phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị tài sản cho người bị hại khi người bị hại có yêu cầu là phù hợp.
Đối với những vật chứng thu được của bị cáo T dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với những vật chứng là tài sản thu được của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội, có giá trị nên cần trả lại cho bị cáo T, nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án dân sự.
Đối với vật chứng 01 tivi SAMSUNG 32inch T khai trộm cắp tại huyện H, tỉnh Phú Thọ, chưa làm rõ được bị hại, Cơ quan CSĐT đã tách vật chứng ra, chuyển tài liệu đến Công an huyện H, tỉnh Phú Thọ làm rõ xử lý sau là phù hợp.
Đối với ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1953 ở khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh Phú Thọ ngày 08/3/2019 mua của T 01 chiếc âm ly nhãn hiệu BO Audio với giá 300.000đ; Ngày 09/10/2019 mua của T 01 âm ly Jarguar với giá 300.000đ; Ngày 27/3/2020 mua của T 01 âm ly NANOMAX Pro568E với giá 300.000đ; Ngày 29/6/2020 mua của T 01 cục đẩy Maximax PS4800, 01 cục vang nhãn hiệu YAMAHA, 01 cục vang nhãn hiệu GA và 02 micro nhãn hiệu Shure UGX9 với giá 1.400.000đ. Các tài sản này đều do T trộm cắp được mà có nhưng khi bán cho ông H, T đều nói dối ông H là tài sản của T nên ông H đã mua ngay tình. Do vậy Cơ quan CSĐT không đề cập xử lý ông H là phù hợp. Số tài sản ông H mua của T, Cơ quan CSĐT đã T giữ Đ 01 âm ly NANOMAX Pro568E, 01 cục đẩy Maximax PS4800, còn 01 chiếc âm ly nhãn hiệu BO Audio, 01 âm ly Jarguar, 01 cục vang nhãn hiệu YAMAHA, 01 cục vang nhãn hiệu GA và 02 micro nhãn hiệu Shure UGX9 ông H đã bán lại cho người đi đường, ông H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không thu giữ được. Tổng số tiền ông H mua của T 01 âm ly NANOMAX Pro568E, 01 cục đẩy Maximax PS4800 hết 1.000.000đ, ông H không yêu cầu T phải hoàn trả cho ông. Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm bồi thường dân sự.
Như vậy, đối với số tiền 1.000.000đ bị cáo T bán tài sản trộm cắp cho ông H mà có. Căn cứ khoản 2 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và hướng dẫn tại mục 7 phần I Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC, ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ. Do vậy, Hội đồng xét xử không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước khoản tiền 1.000.000đ của bị cáo T.
Đối với số tiền 11.300.000đ bị cáo T bán tài sản trộm cắp cho bị cáo B mà có. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo B không yêu cầu bị cáo T phải hoàn trả số tiền 11.300.000đ. Như vậy, đây là số tiền thu lợi bất chính, do vậy cần truy thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với anh Bùi Hữu N - sinh năm 1988, HKTT: Số nhà 49B, đường H V, phường T, thành phảiố V Y, tỉnh V P là người đã mua 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA của Hoàng Trọng B với giá 5.500.000đ (đây là tài sản T trộm cắp tại nhà thờ sứ Hương C, thuộc khu Hương C 2, xã H, huyện C bán cho B). Khi mua anh N không biết đây là tài sản phạm tội mà có do B tiêu thụ do vậy Cơ quan CSĐT không đề cập xử lý đối với anh N là phù hợp. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT đã thu giữ của anh N 01 chiếc đàn organ nhãn hiệu YAMAHA; B đã tự nguyện bồi thường cho anh N số tiền 5.500.000đ, anh N không có yêu cầu đề nghị gì khác.
Đối với lời khai của T sau khi trộm cắp được tài sản, B mua được tài sản trộm cắp đã bán một số loại tài sản cho một số người không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể; Cơ quan CSĐT đã xác minh nhưng không xác định được, không thu giữ được vật chứng. Khi nào xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.
[8] Quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện YL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện YL, Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa các bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Các Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo T còn phải chịu án phí dân sự trong án hình sự theo quy định của pháp luật.
Đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng điều luật, hình phạt, xử lý vật chứng và bồi thường cơ bản là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173, điểm r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm “Tội trộm cắp tài sản”.
Xử phạt Nguyễn Văn T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/8/2020.
Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1, 2, 4 Điều 36 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Hoàng Trọng B phạm “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Xử phạt Hoàng Trọng B 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ 06 ngày tạm giữ (từ ngày 08/8/2020 đến ngày 14/8/2020), quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ. Nay bị cáo còn phải thi hành 14 (Mười bốn) tháng 12 (Mười hai) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày UBND cấp xã nơi cư trú của bị cáo được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã trong việc giám sát, giáo dục.
Giao bị cáo Hoàng Trọng B cho Uỷ ban nhân dân phường L, thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Trong thời gian chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, khấu trừ một phần thu nhập đối với Hoàng Trọng B số tiền 400.000đ/tháng (Bốn trăm nghìn đồng), để sung quỹ nhà nước.
Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự;
Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ đối với bị cáo Hoàng Trọng B.
Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn T và Hoàng Trọng B.
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự.
Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện YL, tỉnh Phú Thọ đã trả như sau:
+ Trả 01 xe ôtô MITSHUBISHI LANCER màu sơn đỏ, BKS: 22L-4517 cho chị Vũ Thị T - sinh năm 1976 ở số nhà 19, ngõ 97, tổ 26, phường Đ, Quận L, Hà Nội.
+ Trả 01 xe mô tô Honda LEAD màu xanh vàng, BKS: 22B1-591.76 cho chị Lê Thị Kim P - sinh năm 1980 Thuộc khu 9, xã Đ, thành phố Q, tỉnh Q. Nay là tổ 10, phường P, thành phố Q, tỉnh Q.
+ Trả 02 bộ mic không dây nhãn hiệu SHURE, 01 cục đẩy liền nhãn hiệu PIOTON, 01 bộ nâng tiếng nhãn hiệu IDOL’S AUDIO IP-100 cho nhà thờ M, xã X, huyện YL do ông Lê Ngọc H - sinh năm 1963, trưởng ban hành giáo đại diện.
+ Trả 01 Quạt hơi nước MEDIA AC200-17JR, màu trắng cho nhà thờ T, xã H, do ông Lê Doanh D - sinh năm 1966, phó ban hành giáo đại diện.
+ Trả 01 tivi nhãn hiệu NEO 50inch; 01 cục đẩy không nhãn hiệu cho anh Hoàng Văn T - sinh năm 1980 ở khu T, xã S, huyện YL.
+ Trả 01 âm ly Jarguar cho anh Đinh Công Đ - sinh năm 1974 ở khu P, xã S, huyện YL.
+ Trả 01 bàn Mixer YAMAHA cho Trường tiểu học X do anh Lê Đức T - sinh năm 1978, hiệu trưởng nhà trường đại diện.
+ Trả 01 cục đẩy Maximax PS4800 cho Chùa V, khu Gò L, xã S, huyện C do sư Võ Thị Hồng M - sinh năm 1975, trụ trì chùa đại diện.
+ Trả 01 đàn YAMAHA, 01 Laptop DELL cho nhà thờ sứ Hương C, xã H, huyện C do anh Nguyễn Quang T - sinh năm 1973, đại diện.
+ Trả 01 âm ly NANOMAX Pro568E cho Nhà văn hóa khu T, xã T, huyện YL do anh Đinh Xuân H - sinh năm 1981, trưởng khu đại diện.
Về trách nhiệm dân sự:
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Bưu điện xã M, huyện YL do chị Nguyễn Thị Bích N - sinh năm 1982 ở khu 5, xã M, huyện YL đại diện, số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho ông Hà Văn H - sinh năm 1964 ở khu 1, xã M, huyện YL số tiền 7.500.000đ (Bảy triệu, năm trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho nhà văn hóa khu V, xã M, huyện YL do anh Nguyễn Thành S - sinh năm 1979 là trưởng khu đại diện, số tiền 3.200.000đ (Ba triệu, hai trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho nhà văn hóa khu Quyết T, xã M, huyện YL do anh Nguyễn Công N - sinh năm 1982 là trưởng khu đại diện, số tiền 1.300.000đ (Một triệu, ba trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho chị Đàm Thị T - sinh năm 1976 ở khu Xuân N, xã M, huyện YL số tiền 4.200.000đ (Bốn triệu, hai trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa Giáp Khế, xã M, huyện YL do bà Nguyễn Thị V - sinh năm 1955 ở khu Đ, xã M, huyện YL đại diện, số tiền 1.600.000đ (Một triệu, sáu trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa Sơn K, xã S, huyện YL do chị Huỳnh Thị T - sinh năm 1983 ở khu X, xã S, huyện YL đại diện, số tiền 5.200.000đ (Năm triệu, hai trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thúy L - sinh năm 1987 ở khu Đình A, xã S, huyện YL số tiền 9.000.000đ (Chín triệu đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho anh Hoàng Văn T - sinh năm 1980 ở khu T, xã S, huyện YL số tiền 1.700.000đ (Một triệu, bảy trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho anh Đinh Công Đ - sinh năm 1974 ở khu P, xã S, huyện YL số tiền 4.200.000đ (Bốn triệu, hai trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho nhà thờ họ giáo X, xã S, huyện YL do ông Bùi Văn Y - sinh năm 1956 ở khu X, xã S, huyện YL đại diện, số tiền 5.800.000đ (Năm triệu, tám trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Trường tiểu H X, huyện YL do anh Lê Đức T - sinh năm 1978 ở khu T2, thị trấn YL, huyện YL là hiệu trưởng đại diện, số tiền 1.700.000đ (Một triệu, bảy trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị H - sinh năm 1979 ở khu 6, xã V, huyện YL số tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho nhà văn hóa khu T, xã Đ, huyện YL do anh Nguyễn Ngọc L - sinh năm 1979 là trưởng khu đại diện, số tiền 1.300.000đ (Một triệu, ba trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa L, thuộc khu T, xã Đ do ông Vũ Hữu C - sinh năm 1952 ở khu T, xã Đ, huyện YL, trụ trì chùa đại diện, số tiền 2.170.000đ (Hai triệu, một trăm, bảy mươi nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Nhà văn hóa khu K, xã Đ, huyện YL do ông Đỗ Công C - sinh năm 1958 là trưởng khu đại diện, số tiền 1.200.000đ (Một triệu, hai trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho ông Nguyễn Đình Đ - sinh năm 1963 ở khu 1, M, xã T, huyện C số tiền 12.800.000đ (Mười hai triệu, tám trăm nghìn đồng).
- Buộc Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Chùa V, xã S, huyện C do sư Võ Thị Hồng M - sinh năm 1975, trụ trì chùa đại diện số tiền 1.400.000đ (Một triệu, bốn trăm nghìn đồng).
Về xử lý vật chứng:
- Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 11.300.000đ (Mười một triệu, ba trăm nghìn đồng) là tiền do Nguyễn Văn T phạm tội mà có.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) do Hoàng Trọng B phạm tội mà có. B đã tự nguyện nộp trước xét xử theo biên lai thu tiền số AA/2013/00997, ngày 12/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện YL, tỉnh Phú Thọ.
- Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 105 thu của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động Apple Iphảione 6s của Hoàng Trọng B.
- Tịch thu tiêu hủy 01 đục bằng sắt xoắn đường kính 02cm, dài 25cm; 01 dây chun cao su dài 2,5m, đầu dây có 02 móc bằng kim loại (là phương tiện T dùng vào việc trộm cắp tài sản).
- Trả lại cho Nguyễn Văn T 01 xe đạp nhãn hiệu Thống Nhất màu xanh; 01 cặp sách màu đen, 01 ống tuýp dài 45cm, đường kính 03cm; 01 chiếc liềm; 01 chiếc kéo sắt có bọc nhựa màu xanh ở tay cầm, 01 mỏ lết loại 375*46; 01 dao có vỏ bao gỗ dài 30cm (kiểu dân thuộc); 01 kìm có tay cầm bọc nhựa màu vàng, 03 tua vít, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án dân sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Buộc các bị cáo Nguyễn Văn T và Hoàng Trọng B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 3.763.500đ (Ba triệu, bảy trăm sáu mươi ba nghìn, năm trăm đồng) án phí dân sự trong án hình sự.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, những người bị hại, những người có quyền, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo. Những người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 01/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 01/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Lập - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về