Bản án 01/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 182/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 206/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Thành T, sinh năm 1999 tại Gia Lai.

Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn 06, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn T1, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Cao Thành T bị tạm giữ từ ngày 25-9-2020 đến ngày 04-10-2020 bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Cao Văn T1, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn 06, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt;

- Người tham gia tố tụng khác: Người chứng kiến ông Phạm Văn T2, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn 02, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a) Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào khoảng 20 giờ ngày 21/9/2020, Cao Thành T là người có sử dụng ma túy gặp và hỏi H chỗ bán ma túy đá thì H gọi điện thoại cho người đàn ông tên L (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy thì người này đồng ý và hẹn gặp nhau tại khu vực gần cầu Đăk Bla, thành phố K, tỉnh Kon Tum đồng thời H đã nói cho T biết địa điểm mà L đã hẹn. Sau đó, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner biển số 81B2-373.74 đi từ Gia Lai đến khu vực gần cầu Đăk Bla, thành phố K, tỉnh Kon Tum, mua của L 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu ma túy trong người rồi điều khiển xe đi về nhà của T tại thôn 6, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Từ ngày 21/9/2020 đến ngày 24/9/2020, T đã lấy số ma túy mua được ra sử dụng 03 lần tại khu vực công viên Đồng Xanh, xã A, thành phố P. Số ma túy còn lại, T để trong gói thuốc lá hiệu Craven Demi rồi cất vào trong túi quần để sử dụng dần. Đến 14 giờ ngày 25/9/2020, khi T đang cất giấu ma túy trong người và đi bộ trên đường thuộc thôn 6, xã A, thành phố P, để tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng điều tra tội phạm về Ma túy, Công an thành phố Pleiku phối hợp với Công an xã An Phú phát hiện, bắt quả tang; thu giữ trong túi quần của T 01 gói nilon bên trong có chứa chất rắn tinh thể màu trắng, để trong vỏ bao thuốc lá hiệu Craven Demi (được niêm phong theo quy định).

b) Về các vấn đề khác của vụ án:

Tại bản Kết luận giám định số 718/KLGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:“Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,2611 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Kết luận giám định số 718/KLGĐ, ngày 02-10-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai.

Đối với số ma túy còn lại sau giám định trong 01 bì công văn ghi số 718/PC09 ngày 02-10-2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai, cùng với vỏ bao thuốc lá Craven Demi Cơ quan điều tra chuyển theo vụ án để xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 81B2-373.74 là của ông Cao Văn T1, cha của bị cáo T. Ông T1 cho Cao Thành T mượn để làm phương tiện đi lại, việc T sử dụng xe đi mua ma túy thì ông T1 không biết. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku không thu giữ chiếc xe mô tô biển số trên.

Đối với đối tượng tên H là người mà bị cáo T khai đã liên lạc mua ma túy cùng đối tượng tên L đã bán ma túy cho T, do bị cáo không biết được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này. Cơ quan điều tra cũng đã tiến hành xác minh tại xã A và phường Thắng Lợi, thành phố P; xác minh tại phường Lê Lợi, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum nhưng chưa xác định được các đối tượng tên H và L, nên chưa có căn cứ để điều tra xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xem xét, xử lý sau.

Đối với ông Cao Văn T1, là cha của Tâm ở cùng nhà với T nhưng việc T mang ma túy về nhà cất giấu trong người để sử dụng dần thì ông T1 không biết nên không có căn cứ để xử lý.

c) Về trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 182/CT-VKS, ngày 13-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Cao Thành T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến gì về nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố. Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi của bị cáo Cao Thành T;

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Cao Thành T mức án từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Do bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy vào mục đích để sử dụng không có thu lợi bất chính, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 bì công văn, ghi số 718/PC09 ngày 02-10-2020 có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai và 01 vỏ bao thuốc lá Craven Demi.

Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Cao Thành T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Cao Thành T không có ý kiến tranh luận về lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku.

Bị cáo Cao Thành T nói lời nói sau cùng: Thưa Hội đồng xét xử bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm đoàn tụ với gia đình và hòa nhập với cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Cao Thành T là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 14 giờ ngày 25/9/2020, khi T đang cất giấu trong người 0,2611 gam ma túy, loại Methamphetamine được để trong vỏ bao thuốc lá Craven Demi đang đi bộ trên đường thuộc thôn 6, xã A, thành phố P, để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố Pleiku phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật.

[3] Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II được ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ. Việc sản xuất, vận chuyển, tàng trữ các chất ma túy này phải tuân thủ theo quy định của pháp luật. Hành vi cất giữ 0,2611 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng mà bị cáo Cao Thành T đã thực hiện, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố bị cáo Cao Thành T là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Bị cáo Cao Thành T là người đã trưởng thành, hoàn toàn nhận thức được việc tàng trữ ma túy để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy; bản thân bị cáo là người có sử dụng ma túy, biết được tác hại của ma túy, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác; nhưng vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên cố ý cất giữ 0,2611 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo đối với bị cáo, và phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không có, sống phụ thuộc gia đình cũng như không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Đối với ông Cao Văn T1 là cha của bị cáo T, ở cùng nhà với T nhưng việc T mang ma túy về nhà cất giấu trong người để sử dụng dần thì ông T1 không biết, nên không có căn cứ để xử lý. Về chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 81B2-373.74 là tài sản của ông T1, ông T1 cho bị cáo T mượn để làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo T sử dụng xe của ông T1 đi mua ma túy thì ông T1 không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku không thu giữ chiếc xe mô tô. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Đối với đối tượng tên H là người mà bị cáo T khai đã liên lạc mua ma túy và đối tượng tên L đã bán ma túy cho T, do bị cáo không biết được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này. Cơ quan điều tra cũng đã tiến hành xác minh tại xã A và phường Thắng Lợi, thành phố P; xác minh tại phường Lê Lợi, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum nhưng chưa xác định được các đối tượng nào là tên H và tên L, nên chưa có căn cứ để điều tra xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xem xét, xử lý sau. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về vật chứng: Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong 01 bì công văn ghi số 718/PC09 ngày 02-10-2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vỏ bao thuốc lá Craven Demi mà bị cáo dùng để ma túy cất trong túi quần nên cần phải tịch thu tiêu hủy.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Cao Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Cao Thành T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 25 tháng 9 năm 2020).

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định trong 01 (một) bì công văn ghi số 718/PC09 ngày 02-10-2020, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai và 01 vỏ thuốc lá hiệu Craven Demi (rách đã qua sử dụng).

(Tất cả vật chứng nêu trên có số lượng, đặc điểm theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16 tháng 11 năm 2020 giữa Công an thành phố Pleiku và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Cao Thành T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về