Bản án 01/2021/HSST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 01/2021/HSST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 100/2020/HSST, ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 282/2020/HSST- QĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Nguyễn Thế L, sinh năm 1999;

- Tên gọi khác: Không;

- Nơi ĐKNKTT và nơi ở: Thôn Đ, xã N, huyên T, tỉnh B;

- Nghề nghiệp: Tự do;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 9/12;

- Họ và tên cha: Nguyễn Thế L, sinh năm 1967;

- Họ và tên mẹ: Lưu Thị L, sinh năm 1971;

- Vợ, con: Chưa có;

- Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai;

- Tiền án, tiền sự: Chưa có;

- Nhân thân: Ngày 25/12/2020, Công an huyện T ra Quyết định khởi tố bị can số 11 đối với Nguyễn Thế L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2020 đến ngày 04/9/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giam, áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 16/12/2020 bị cáo L bị Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang tạm giữ và ngày 25/12/2020 bị tạm giam theo Lệnh tạm giam số 08/LTG -CQĐT (Trong vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” khác). Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phạm Xuân T, sinh năm 1997(Vắng mặt) Trú tại: Thôn Ngọc L, xã N, huyện T, tỉnh B.

- Anh Phạm Công H, sinh năm 1994(Vắng mặt) Trú tại: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh B.

- Anh Đoàn Hữu S, sinh năm 1986 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn T, xã S, huyện T, tỉnh B.

- Anh Ngô Văn H, sinh năm 1975(Vắng mặt) Trú tại: Thôn L, xã V, huyện T, tỉnh B.

- Ông Ngô Văn M, sinh năm 1947 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn L, xã V, huyện T, tỉnh B.

- Ông Thân Đức P, sinh năm 1960(Vắng mặt) Trú tại: Thôn C, xã N, huyện T, tỉnh B.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1964(Vắng mặt) Trú tại: Thôn C, xã N, huyện T, tỉnh B.

- Anh Thân Văn H, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn C, xã N, huyện T, tỉnh B.

- Chị Lò Thị Ó, sinh năm 1986 (Vắng mặt) Trú tại: Bản C, xã T, huyện T, tỉnh L.

- Chị Ngô Thị Loan, sinh năm 1973 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn P, xã N, huyện K, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 21/7/2020, Nguyễn Thế L, sinh năm 1999, trú tại thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh B, Phạm Xuân T, sinh năm 1997, trú tại thôn N, xã N, huyện T, tỉnh B, Phạm Công H, sinh năm 1994, trú tại thôn T, xã N, huyện T, tỉnh B và Thân Văn H, sinh năm 1992 ở thôn C, xã N, huyện T, tỉnh B đến phòng số 02 của nhà nghỉ H thuộc thôn C, xã N, huyện T, tỉnh B do Đoàn Hữu S, sinh năm 1986, trú tại thôn T, xã S, huyện T thuê gặp S và ở chơi tại nhà nghỉ cùng S. Tại đây, S mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, biển kiểm soát 98B2- 923.52 của Phạm Công H để chở L đến thị trấn C, huyện T để ăn cơm trưa. Sau khi ăn cơm xong, L nhờ S đi mua ma túy về để sử dụng, S đồng ý. S điều khiển xe mô tô chở L đến nhà Ngô Văn H, sinh năm 1975, trú tại thôn L, xã V, huyện T, tỉnh B. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày thì L và S đến nhà, khi đến nhà H thì L và S gặp H và ông Ngô Văn M, sinh năm 1947 là bố của H, Lò Thị Ó, sinh năm 1986 ở bản C, xã T, huyện T, tỉnh L là bạn gái của H và một số người đàn ông khoảng 40 đến 50 tuổi (L không biết tên, tuổi địa chỉ của những người đàn ông này) đang ngồi chơi uống nước ở sân nhà H cùng với ông M, L và S ngồi uống nước cùng. L thấy S với H ngồi gần và nói chuyện với nhau, S bảo L đưa tiền cho S, L hiểu ý S bảo L đưa tiền để S mua ma túy của H nên L đưa cho S số tiền 6.000.000đồng. S cầm tiền sau đó S và H đi ra khu vực phía sau nhà H, còn L ngồi xem điện thoại. Khoảng 3 phút sau thì S đi ra chỗ L bảo L về, L biết là S đã mua được ma túy của H nên L cùng S về nhà nghỉ H. Khi về đến phòng số 02 tầng một nhà nghỉ H lúc này H, T và H vẫn ở trong phòng đang xem điện thoại. S lấy trong túi quần ra một bao thuốc lá Thăng Long vứt ra giường rồi đi ra ngoài sang phòng nghỉ số 4 bên cạnh. L lên giường cầm bao thuốc lá S vứt ra, L mở bao thuốc lá ra thì thấy có 01 túi nilon màu xanh, một đầu có rãnh khóa nhựa và đường kẻ đỏ được cuộn lại và buộc bằng dây chun nịt, bên trong có các viên nén hình tròn màu hồng đỏ, 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và đường kẻ đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng. Sau đó L lấy 06 viên nén hình tròn màu hồng đỏ là ma túy tổng hợp ra khỏi túi nilon rồi bỏ 02 viên ma túy tổng hợp vào sau ốp điện thoại Iphone của L, L đút túi đựng ma túy vào trong vỏ bao thuốc lá, còn 04 viên ma túy tổng hợp còn lại L bỏ ra cùng H và T sử dụng ma túy dưới hình thức hút. Khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày thì lực lượng Công an huyện Tđến kiểm tra phòng số 02 nhà nghỉ H, do hoảng sợ L cầm toàn bộ số ma túy có trong vỏ bao thuốc lá “Thăng Long” chạy vào nhà vệ sinh ném vào trong bồn cầu thì bị lực lượng Công an huyện T kịp thời ngăn chặn không cho L xả nước, đồng thời tổ công tác Công an huyện T tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:

- Thu giữ tại bồn cầu trong nhà vệ sinh phòng số 02 của nhà nghỉ Hồng Nhạn:

01 (một) vỏ bao thuốc lá “Thăng Long” bên trong có đựng 02 (hai) túi nilon, trong đó: 01 (một) túi nilon màu xanh, một đầu có rãnh khóa nhựa có viền màu đỏ, bên trong đựng các viên nén hình tròn màu hồng đỏ trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” và 01 (một) viên nén hình tròn màu xanh, trên một mặt của viên nén có chữ “A” nghi là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến; 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa có viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá;

- Thu giữ trong chiếc ốp lưng trong suốt đang gắn trên điện thoại nhãn hiệu Iphone của Nguyễn Thế L để tại giường ngủ trong phòng số 02 nhà nghỉ Hồng Nhạn 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” nghi là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến. Tất cả số vật chứng thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”.

- Thu giữ của Nguyễn Thế L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số IMEI: 355837086894009 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, có số IMEI: 351926050005124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

- 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu S trắng, biển kiểm soát 98B2 - 923.52, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

Ngày 21/7/2020, Cơ quan cảnh sát đều tra Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thế L, sinh năm 1999, ở thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh B. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến vụ án.

Cùng ngày 21/7/2020, Cơ quan cảnh sát đều tra Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Ngô Văn H, sinh năm 1975, ở thôn L, xã V, huyện T, tỉnh B, kết quả khám xét thu giữ đồ vật, tài liệu gồm:

- 01 (một) hộp giấy có chữ “Đông trùng hạ thảo y phúc”, có hoa văn màu đỏ - vàng - đen, bên trong có 10 (mười) đoạn ống nhựa màu trắng, có dọc kẻ màu trắng, được hàn kín hai đầu, trong đó:

+ 05 (năm) đoạn ống nhựa, bên trong mỗi đoạn đều đựng 01 (một) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” nghi là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến;

+ 05 (năm) đoạn ống nhựa, bên trong mỗi đoạn đều đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá;

+ 03 (ba) mảnh giấy bạc đều được gấp lại, có hai mặt màu trắng bạc được thu giữ tại gầm giường trong phòng ngủ của Ngô Văn H;

- 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng có dọc kẻ màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá được thu giữ tại hộp giấy hình trái tim màu đỏ tại đầu giường ngủ Ngô Văn H, tất cả vật chứng trên được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu "KX" Cùng ngày, Cơ quan điều tra còn tạm giữ của ông Ngô Văn M, sinh năm 1947, trú tại thôn L, xã V, huyện T: 01 (một) đầu ghi hình Camera có số Serial là 5K04C43PAZF 092B, đã qua sử dụng, đồng thời được niêm phong và có đóng dấu của Công an xã V cùng chữ ký của những người liên quan.

Ngày 21/7/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B giám định vật chứng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu "QT" và vật chứng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệ "KX" có pH chất ma túy không? Là loại ma túy gì? Trọng lượng bao nhiêu? Tại bản kết luận giám định 926/KL-KTHS ngày 23/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

"5.1. Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định:

- Trong 01 (một) túi nilon màu xanh một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ được cuộn lại và buộc lại bằng dây chun nịt:

+ 92 (chín mươi hai) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” là ma túy, có khối lượng 9,067 gam, loại Methamphetamine;

+ 01 (một) viên nén hình tròn màu xanh, trên một mặt của viên nén có chữ “A” không tìm thấy thành phần chất ma túy, có khối lượng 0,103 gam;

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 4,399 gam, loại Methamphetamine;

- 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong một túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 0,198 gam, loại Methamphetamine.

5.2. Trong 01 (một) hộp giấy có ký hiệu “KX” được dán niêm phong bằng các dải niêm phong gửi giám định:

- Trong 01 (một) hộp giấy có chữ “Đông trùng hạ thảo y phúc”:

+ Tinh thể màu trắng đựng 05 (năm) đoạn ống nhựa màu trắng, có kẻ sọc màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, có khối lượng 0,593 gam, loại Methamphetamine;

+ 05 (năm) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong 05 (năm) đoạn ống nhựa màu trắng, có kẻ sọc màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, có khối lượng 0,488 gam, loại Methamphetamine;

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng, có kẻ sọc màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, có khối lượng 0,101 gam, loại Methamphetamine.

Tại Cơ qua điều tra Nguyễn Thế L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã đấu tranh với Đoàn Hữu S nhưng S không thừa nhận là người đã mua ma túy cho L như L đã khai. S khai sau khi ăn cơm trưa xong thì L rủ S xuống nhà Ngô Văn H ở xã V chơi, L không nói cho S biết việc L đến nhà H mục đích mua ma túy. Khi đến nhà H thì S và L có gặp H và ông Mạc bố H ở nhà cùng hai người đàn ông nữa S không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. S có nói chuyện xã giao với H và ông Mạc khoảng 5 phút thì S và L đi xe về nhà nghỉ Hồng Nhạn. S vào quầy nhà nghỉ lấy bao thuốc lá rồi đi đến phòng số 02 đứng ở cửa vứt chiếc áo cộc của S vào phòng rồi sang phòng 4 chơi. Do lời khai của S và L có mâu thuẫn, Cơ quan điều tra triệu tập S để làm rõ các mâu thuẫn nhưng S không đến làm việc theo giấy triệu tập. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh hiện S không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ xử lý đối với S. Ngày 19/11/2020, Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu có liên quan đến Đoàn Hữu S ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Cơ quan điều tra đã đấu tranh với Ngô Văn H nhưng H không thừa nhận ngày 21/7/2020 H có mặt ở nhà, H không bán ma túy cho S và L như L đã khai. Ngoài ra H không biết số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ tại nhà H là của ai, do đâu mà có. Cơ quan điều tra tiến hành cho L đối chất với H nhưng các bên vẫn giữ nguyên lời khai nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối với H về hành vi "Mua bán trái phép chất ma túy".

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm việc với ông Ngô Văn M và chị Lò Thị Ó, ông M và chị Ó đều trình bày ngày 21/7/2020, H đi lấy thuốc cho mẹ không có mặt ở nhà như lời khai của L và S, thời điểm đó vợ ông Mạc ốm nặng nên có nhiều người đến thăm hỏi, ông Mạc và chị Óng không biết có những ai đến. Mặt khác ông M và chị Ó không biết số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét tại gia đình là của ai, do đâu mà có nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xem xét xử lý đối với ông Mạc và chị Óng.

Đối với ông Thân Đức P, sinh năm 1960, trú tại thôn C, xã N, huyện T chủ nhà nghỉ H không biết L và các đối tượng có hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng nghỉ nên ông P không vi phạm pháp luật.

Đối với Phạm Công H và Phạm Xuân T được L bỏ ma túy ra cho sử dụng cùng, ngoài ra H và T không biết việc L đi mua ma túy và cất giấu ma túy trong bao thuốc lá Thăng L. Số ma túy L bỏ ra L, H và T đã sử dụng hết nên ngày 18/11/2020 Trưởng Công an huyện T ra Quyết định xử phạt hành chính đối với L, H và T về hành vi "Sử dụng trái phép chất ma túy".

Đối với Thân Văn H không biết việc L tàng trữ trái phép chất ma túy nên H không vi phạm pháp luật.

Đối với số ma túy thu giữ khi khám xét tại gia đình Ngô Văn H, Cơ quan điều tra đã tích cực điều tra, nhưng đến nay chưa xác định được nguồn gốc số ma túy này là của ai nên ngày 18/11/2020, Cơ quan điều tra ra Quyết định tách vụ án hình sự số 08, tách hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại thôn L, xã V, huyện T, tỉnh B cùng toàn bộ vật chứng ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, có số IMEI: 351926050005124 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số IMEI: 355837086894009, quá trình điều tra đã xác định 02 chiếc điện thoại này là của bị can L không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu S trắng, biển kiểm soát 98B2-923.52. Quá trình điều tra đã xác định chiếc xe mô tô này là tài sản của anh Phạm Công H, sinh năm 1994, trú tại thôn Tam Hà, xã N, huyện T, tỉnh B, anh H cho S mượn xe đi ăn cơm, anh H không biết việc S và L đã sử dụng chiếc xe mô tô của mình đi mua ma túy nên Cơ quan đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh H quản lý, sử dụng.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Bản Cáo trạng số: 89/CT-VKS, ngày 27/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên truy tố Nguyễn Thế L về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm g khoản 02 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

* Áp dụng điểm g khoản 02 khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế L từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2020 đến ngày 04/9/2020. Phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Nguyễn Thế L 5.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

* Áp dụng khoản 1 Điều 47 của BLHS 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT”: Trong một túi ni lon màu xanh một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ được cuộn lại và buộc bằng dây chun nịt:

+ Mẫu viên nén hình tròn màu hồng đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 8,495 gam;

+ Mẫu chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 4,357 gam;

+ Mẫu viên nén hình tròn màu hồng đỏ đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 0,176 gam;

+ 01 (một) phong bì của Công an huyện Tđược gấp lại, bên trong đựng 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” màu vàng.

Phong bì trên được niêm phong bằng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám định;

- Trả lại bị cáo Nguyễn Thế L: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, có số IMEI: 351926050005124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số IMEI: 355837086894009, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Thế L nói lời sau cùng: Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Hồi 12 giờ 10 phút ngày 21/7/2020, tại phòng số 02 nhà nghỉ H do ông Thân Đức P, sinh năm 1960 ở thôn C, xã N, huyện T, tỉnh B quản lý; Tổ công tác Công an huyện T, tỉnh B tiến hành kiểm tra phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thế L đang có hành vi tàng trữ trái phép 13,664 gam ma túy Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Bản tự khai, Bản tường trình, Bản kiểm điểm và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng cùng tang vật chứng là:

13,664 gam ma túy Methamphetamine và kết quả giám định vật chứng. Như vậy, hành vi trên của bị cáo Nguyễn Thế L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 02 Điều 249 của BLHS. Bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự công cộng, xâm phạm sự độc quyền quản lý các chất gây nghiện của nhà nước. Vi phạm nghiêm trọng luật phòng chống ma túy. Ma tuý là hiểm hoạ cho đời sống cộng đồng, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và là nguy cơ lây truyền các bệnh xã hội nguy hiểm như HIV, AIDS. Pháp luật đã nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Bị cáo đã tiếp tay cho việc tiêu thụ ma tuý. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần pH xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo cho việc giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Cần pH bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù với thời hạn nhất định để bị cáo có điều kiện tu dưỡng rèn luyện bản thân làm người có ích cho gia đình và xã hội như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.

Cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 Điều 249 của BLHS đối với bị cáo Nguyễn Thế L để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Nhân thân: Ngày 25/12/2020 Nguyễn Thế L bị Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang khởi tố bị can: số 11/QĐ-CQĐT trong vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” khác. Chứng tỏ bị cáo có nhân thân xấu.

Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Không có.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Nên áp dụng tình tiết xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51của BLHS.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra về xử lý vật chứng là phù hợp, có cơ sở chấp nhận. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của BLTTHS:

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT”: Trong một túi ni lon màu xanh một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ được cuộn lại và buộc bằng dây chun nịt:

+ Mẫu viên nén hình tròn màu hồng đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 8,495 gam;

+ Mẫu chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 4,357 gam;

+ Mẫu viên nén hình tròn màu hồng đỏ đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 0,176 gam;

+ 01 (một) phong bì của Công an huyện Tđược gấp lại, bên trong đựng 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng L” màu vàng.

Phong bì trên được niêm phong bằng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám định;

- Trả lại bị cáo Nguyễn Thế L: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, có số IMEI: 351926050005124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số IMEI: 355837086894009, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng là của bị cáo L không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án [6] Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã đấu tranh với Đoàn Hữu S nhưng S không thừa nhận là người đã mua ma túy cho L như L đã khai. S khai sau khi ăn cơm trưa xong thì L rủ S xuống nhà Ngô Văn H ở xã V chơi, L không nói cho S biết việc L đến nhà H mục đích mua ma túy. Khi đến nhà H thì S và L có gặp H và ông M bố H ở nhà cùng hai người đàn ông nữa S không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. S có nói chuyện xã giao với H và ông M khoảng 5 phút thì S và L đi xe về nhà nghỉ H. S vào quầy nhà nghỉ lấy bao thuốc lá rồi đi đến phòng số 02 đứng ở cửa vứt chiếc áo cộc của S vào phòng rồi sang phòng 4 chơi. Do lời khai của S và L có mâu thuẫn, Cơ quan điều tra triệu tập S để làm rõ các mâu thuẫn nhưng S không đến làm việc theo giấy triệu tập. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh hiện S không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ xử lý đối với S. Ngày 19/11/2020, Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu có liên quan đến Đoàn Hữu S ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Cơ quan điều tra đã đấu tranh với Ngô Văn H nhưng H không thừa nhận ngày 21/7/2020 H có mặt ở nhà, H không bán ma túy cho S và L như L đã khai.

Ngoài ra H không biết số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ tại nhà H là của ai, do đâu mà có. Cơ quan điều tra tiến hành cho L đối chất với H nhưng các bên vẫn giữ nguyên lời khai nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối với H về hành vi "Mua bán trái phép chất ma túy".

[8] Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm việc với ông Ngô Văn M và chị Lò Thị Ó, ông Mạc và chị Ó đều trình bày ngày 21/7/2020, H đi lấy thuốc cho mẹ không có mặt ở nhà như lời khai của L và S, thời điểm đó vợ ông M ốm nặng nên có nhiều người đến thăm hỏi, ông M và chị Ó không biết có những ai đến. Mặt khác ông M và chị Ó không biết số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét tại gia đình là của ai, do đâu mà có nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xem xét xử lý đối với ông M và chị Ó.

[9] Đối với ông Thân Đức P chủ nhà nghỉ H không biết L và các đối tượng có hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng nghỉ nên ông P không vi phạm pháp luật.

[10] Đối với Phạm Công H và Phạm Xuân T được L bỏ ma túy ra cho sử dụng cùng, ngoài ra H và T không biết việc L đi mua ma túy và cất giấu ma túy trong bao thuốc lá Thăng L. Số ma túy L bỏ ra L, H và T đã sử dụng hết nên ngày 18/11/2020 Trưởng Công an huyện T ra Quyết định xử phạt hành chính đối với L, H và T về hành vi "Sử dụng trái phép chất ma túy".

[11] Đối với Thân Văn H không biết việc L tàng trữ trái phép chất ma túy nên Hưởng không vi phạm pháp luật.

[12] Đối với số ma túy thu giữ khi khám xét tại gia đình Ngô Văn H, Cơ quan điều tra đã tích cực điều tra, nhưng đến nay chưa xác định được nguồn gốc số ma túy này là của ai nên ngày 18/11/2020, Cơ quan điều tra ra Quyết định tách vụ án hình sự số 08, tách hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại thôn L, xã V, huyện T, tỉnh B cùng toàn bộ vật chứng ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra.

[13] Đối với 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu S trắng, biển kiểm soát 98B2-923.52. Quá trình điều tra đã xác định chiếc xe mô tô này là tài sản của anh Phạm Công H, sinh năm 1994, trú tại thôn T, xã N, huyện T, tỉnh B, anh H cho S mượn xe đi ăn cơm, anh H không biết việc S và L đã sử dụng chiếc xe mô tô của mình đi mua ma túy nên Cơ quan đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh H quản lý, sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Áp dụng điểm g khoản 02, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế L 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2020 đến ngày 04/9/2020. Phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Nguyễn Thế L 5.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

3. Áp dụng điểm a điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS:

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT”: Trong một túi ni lon màu xanh một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ được cuộn lại và buộc bằng dây chun nịt:

+ Mẫu viên nén hình tròn màu hồng đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 8,495 gam;

+ Mẫu chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 4,357 gam;

+ Mẫu viên nén hình tròn màu hồng đỏ đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 0,176 gam;

+ 01 (một) phong bì của Công an huyện Tđược gấp lại, bên trong đựng 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” màu vàng.

Phong bì trên được niêm phong bằng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám định;

- Trả lại bị cáo Nguyễn Thế L: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, có số IMEI: 351926050005124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số IMEI:

355837086894009, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng theo Quyết định chuyển vật chứng số: 76/QĐ – VKS, ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên).

4. Áp dụng khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Thế L phải chịu 200.000đồng án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt (hoặc niêm yết) bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

366
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HSST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về