Bản án 01/2021/HS-ST ngày 04/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 04/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 429/2020/HSST ngày 08 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 438/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRẦN MINH T, sinh ngày: 26/5/2001; Tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: 313 Y Jut, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trần Bình A, sinh năm 1978 và con bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1977. Hiện trú tại: hẻm 274 X, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/8/2020, hiện đang giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột – Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Dương Văn P, sinh năm 2002. Địa chỉ: 415 H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1977. Địa chỉ: 313 Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Minh T là đối tượng nghiện chất ma túy loại cần sa từ tháng 02/2020 cho đến nay. Khoảng giữa tháng 8/2020, có một người nam giới tên H (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) gọi vào số điện thoại 0946999541 của T để bán ma túy cần sa thì T đồng ý mua. H hẹn T đến khu vực chùa L, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để giao ma túy. Sau đó, T đi đến điểm hẹn gặp và mua được từ H 15 gói ma túy cần sa với giá tiền là 1.000.000 đồng. Sau khi mua được số ma túy này, T đã sử dụng hết 10 gói ma túy cần sa. Đến khoảng 09 giờ 00 ngày 26/8/2020, Dương Văn P, sinh năm: 2002, trú tại: 415 H, phường T, thành phố B sử dụng điện thoại hiệu Nokia, màu đen, gắn sim số 0818013747 gọi vào số điện thoại của T hỏi mua của T 200.000 đồng ma túy cần sa. T đồng ý và hẹn gặp nhau ở ngã ba đường N và đường N, phường T, thành phố B để bán ma túy cho P. Sau đó, T lấy 05 gói ma túy cần sa cất giấu vào trong túi xách để trong cốp xe mô tô mang biển số: 47C1 – 03902 và lái xe đi đến điểm hẹn với mục đích sẽ lấy 02 gói ma túy cần sa để bán cho P với số tiền 100.000 đồng/gói. Khi T đến điểm hẹn nhưng chưa kịp lấy ma túy bán cho P thì T bị Công an phường T, thành phố B phát hiện kiểm tra thu giữ của T gồm: 05 gói nylon đều chứa thảo mộc khô màu xanh và được niêm phong trong một phong bì thư theo quy định của pháp luật.

Theo Kết luận giám định số 809 ngày 01/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Thảo mộc khô màu xanh đựng trong 05 gói nylon gửi giám định là chất ma túy loại cần sa, có tổng khối lượng: 8,0539gam.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKS TP.BMT ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng số 06/CT-VKS TP.BMT ngày 07 tháng 12 năm 2020, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt: Bị cáo Trần Minh T từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”..

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy đối với chất ma túy còn lại sau giám định Khối lượng 7,3521gam chất ma túy loại Cần sa và bao gói còn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 809/GĐMT-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu IPhone màu xám gắn sim số 0946999541, 01 túi xách màu xanh đen là tài sản của bị cáo dùng vào việc phạm tội.

- Trả lại cho bị cáo đối với 01 chứng minh nhân dân số 241828824 mang tên Trần Minh T là giấy tờ cá nhân của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ đảm bảo công tác thi hành án.

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh H đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM, số loại: ATTILA, màu sơn: Đỏ, số khung: RLGKA12HDCD066906, số máy: VMVTBBD066906, mang biển số: 47C1 – 03902. Quá trình điều tra xác định là của bà: Nguyễn Thị Thanh B, sinh năm: 1980, HKTT: 126/1 Y, phường T, thành phố B đứng tên chủ sở hữu. Vào tháng 8/2019, bà B đã cho chị ruột của mình là bà Nguyễn Thị Thanh H (mẹ ruột của bị cáo) trú tại: 313 Y, phường T, thành phố B chiếc xe mô tô trên. Vào ngày 26/8/2020, bị cáo T mượn chiếc xe trên sử dụng làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội nhưng bà H không biết.

- Trả lại cho anh Dương Văn P đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen gắn sim số 0818013747 và số tiền 200.000 đồng là tài sản của Dương Văn P không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì thêm, đối với bị cáo Trần Minh T chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào ngày 26/8/2020 tại ngã ba đường N và đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Trần Minh T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì bị Công an phường T, thành phố B kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ trên người bị cáo 05 gói nylon bên trong chứa thảo mộc khô màu xanh là chất ma túy loại cần sa, có tổng khối lượng là: 8,0539 gam.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.

[3]. Lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, chứng minh đầy đủ các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, như vậy quyết định truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Trần Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, đồng thời còn gây mất ổn định trị an xã hội và nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác, làm tổn hại giống nòi và còn là nguyên nhân dẫn đến làm lan truyền các căn bệnh xã hội khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được rằng, ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Song do lối sống buông thả, không lành mạnh, nghiện ngập, nên bị cáo đã thực hiện việc mua bán ma túy để nhầm mục đích kiếm lời và sử dụng cho bản thân. Vì vậy, đối với bị cáo cần có mức án đủ nghiêm và buộc cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định có như vậy mới đủ tính chất giáo dục và răn đe.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Trần Minh T Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

Đối với nguồn gốc ma tuý, bị cáo khai mua của người nam giới tên gọi là H, trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột tách hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của đối tượng H ra khỏi vụ án, tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Đối với Dương Văn P là người mua ma túy của bị cáo T để sử dụng, nhưng P chưa mua được ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự đối với P, là phù hợp. Tuy nhiên, P có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an phường T, thành phố B ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 375.000 đồng là phù hợp.

[4]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho các bị cáo trong khi lượng hình, để giảm nhẹ một phần hình phạt, đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[5]. Về các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy đối với chất ma túy còn lại sau giám định khối lượng 7,3521 gam chất ma túy loại cần sa và bao gói còn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 809/GĐMT-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu IPhone màu xám gắn sim số 0946999541, 01 túi xách màu xanh đen là tài sản của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên.

- Trả lại cho bị cáo T đối với 01 chứng minh nhân dân số 241828824 mang tên Trần Minh T là giấy tờ cá nhân của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ đảm bảo công tác thi hành án.

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh H đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM, số loại: ATTILA, màu sơn: Đỏ, số khung: RLGKA12HDCD066906, số máy: VMVTBBD066906, mang biển số: 47C1 – 03902. Quá trình điều tra xác định là của bà: Nguyễn Thị Thanh B, sinh năm: 1980, HKTT: 126/1 Y, phường T, thành phố B đứng tên chủ sở hữu. Vào tháng 8/2019, bà B đã cho chị ruột của mình là bà Nguyễn Thị Thanh H (mẹ ruột của bị cáo) trú tại: 313 Y Jut, phường T, thành phố B chiếc xe mô tô trên. Vào ngày 26/8/2020, bị cáo T mượn chiếc xe trên sử dụng làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội nhưng bà H không biết.

- Trả lại cho Dương Văn P đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen gắn sim số 0818013747 và số tiền 200.000đ là tài sản của Dương Văn P không liên quan đến hành vi phạm tội.

[6]. Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

2015 Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm Xử phạt: Bị cáo Trần Minh T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày 26/8/2020.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy đối với chất ma túy còn lại sau giám định Khối lượng 7,3521gam chất ma túy loại Cần sa và bao gói còn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 809/GĐMT-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước dối với 01 điện thoại di động hiệu iPhone màu xám gắn sim số 0946999541, 01 túi xách màu xanh đen là tài sản của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên.

- Trả lại cho bị cáo T đối với 01 chứng minh nhân dân số 241828824 mang tên Trần Minh T là giấy tờ cá nhân của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ đảm bảo công tác thi hành án.

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh H đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM, số loại: ATTILA, màu sơn: Đỏ, số khung: RLGKA12HDCD066906, số máy: VMVTBBD066906, mang biển số: 47C1 – 03902, là tài sản thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị Thanh H.

- Trả lại cho Dương Văn P đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen gắn sim số 0818013747 và số tiền 200.000đ là tài sản của Dương Văn P không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Tang vật có đặc điểm như trong biên bản giao nhân vật chứng giữa Cơ quan Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột ngày 09/12/2020).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Minh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

381
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 04/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về