Bản án 01/2021/HSST ngày 04/01/2021 về tội bắt giữ người trái pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 01/2021/HSST NGÀY 04/01/2021 VỀ TỘI BẮT GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Ngày 04 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Th lý số: 298/2020/HSST ngày 24/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 280/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020, đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Phạm Quốc N, sinh năm 1987; tại Kiên Giang; Nơi cư trú: Ấp TH, xã HN3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn T, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1961; có vợ tên Nguyễn Thị Nhã Ph, sinh năm 1991 và có 01 con sinh năm năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giam, giữ ngày 04/7/2020 (Có mặt).

2/ Họ và tên: Đoàn Thế A, sinh năm 1997; tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp BC, xã BS, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Việt L (Đã chết) và bà Đoàn Thị S1, sinh năm 1964; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giam, giữ ngày 04/7/2020 (Có mặt).

- Bị hại: Ông Lê Thanh T, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Ấp SM, xã BS, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Th (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, N dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 7/2019, Đoàn Thế A đưa cho Phạm Quốc N số tiền 50.000.000 đồng cho anh Lê Thanh T vay để làm ăn, sau đó đến hẹn nhưng anh T không trả lại tiền. Đến ngày 07/4/2020, N gọi điện cho anh T hẹn 15 giờ cùng ngày gặp nhau tại nhà thờ BC thuộc ấp BC, xã BS, huyện Trảng Bom để giải quyết tiền nợ. Tiếp đó N gọi điện thoại cho Thế A đến địa điểm đã hẹn để gặp T lấy tiền. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi thấy anh T điều khiển xe mô tô Vario biển số 60B9 -526.63 dừng trước cổng nhà thờ BC thì Thế A từ phía sau dùng tay kẹp cổ giật ngã và đấm 02 cái vào mặt T. Ngay lúc này, N điều khiển xe ô tô Mazda biển số 60A-411.13 đi tới cùng với hai người bạn tên T1 và Ch (không rõ nhân thân, lai lịch). N, T1 và Ch cùng xuống xe, T1 dùng chân đá 01 cái vào người anh T, vì T chưa có tiền để trả nên N nói với Thế A và T1 đưa T lên khu vực trường Cao đẳng Cơ Giới và Thủy Lợi thuộc xã HN3, Trảng Bom để yêu cầu T trả nợ còn N và Ch về nhà anh Đặng Xuân V thôn Đông Bình, ấp BC, xã BS, huyện Trảng Bom để ăn nhậu. T1 điều khiển mô tô Vario biển số 60B9 -526.63, Thế A ngồi sau dùng tay kẹp cổ khống chế anh T đưa đến địa điểm khu vực trường Cao đẳng Cơ giới và Thủy Lợi nhưng không tìm được địa điểm nên đã gọi điện thoại báo cho N biết. N yêu cầu Thế A và T1 đưa T về chỗ N và Ch đang nhậu. Sau đó, T1 và Thế A tiếp tục khống chế anh T đến khu vực nghĩa địa ấp Phú Sơn, xã BS, huyện Trảng Bom thì gọi điện cho N ra dẫn về nơi N đang nhậu. N điều khiển xe mazda ra gặp rồi N đi trước để T1 điều khiển xe Vario cùng Thế A khống chế, giữ anh T ngồi giữa đi theo phía sau về hướng chợ Phú Sơn, xã BS. Khi đến trước nghĩa địa ấp Phú Sơn, xã BS, huyện Trảng Bom thì N xuống xe, yêu cầu T trả tiền và dùng tay tát 02 cái vào mặt anh T rồi lên xe ô tô đi về nhà anh V. T1 tiếp tục dùng xe mô tô chở T, Thế A ngồi sau dùng tay khống chế T để đưa về nhà anh V. Tại đây, anh T xin các đối tượng đi cầm xe để lấy tiền trả nợ thì N đồng ý và yêu cầu Thế A và T1 đưa anh T ra tiệm cầm đồ “Bảo Tín” thuộc ấp An Chu, xã BS, huyện Trảng Bom do anh Hoàng Đức D làm chủ, còn N và Ch đi theo sau. Trên đường đi anh T gọi điện cho anh Nguyễn Văn Th mang giấy tờ xe ra tiệm cầm đồ “Bảo Tín” để cầm chiếc xe mô tô Vario biển số 60B9 -526.63 (xe này do anh Th làm chủ sở hữu), nhưng chủ tiệm cầm đồ “Bảo Tín” không nhận cầm chiếc xe Vario trên. Anh T mượn chiếc xe Airblade biển số 60B9-251.72 mà anh Th đang đi để cầm cùng 01 chiếc điện thoại Iphone 11 của anh T cầm được số tiền 25.000.000 đồng đưa cho Thế A nhưng Thế A không nhận do thấy anh T cầm cố tài sản của anh Th. Sau đó, Thế A điều khiển xe mô tô bắt T ngồi giữa, T1 ngồi sau rồi cùng N, Ch và Th về nhà anh V thì T xin cho gọi điện về cho mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Lý để mượn tiền nhưng không được thì N và Anh đã để cho anh T đi về cùng Th.

Ngày 26/5/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đoàn Thế A và Phạm Quốc N để điều tra theo quy định. Trong quá trình điều tra, bị can Đoàn Thế A và Phạm Quốc N đã thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khai nhận hành vi bắt giữ anh T như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe mô tô Airblade biển số 60B9-251.72, số khung 4616EY004590; số máy JF 46E2006931; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô Airblade biển số 60B9-251.72 và 01 ĐTDĐ Iphone 11 Đối với 02 điện thoại di động mà các bị can Phạm Quốc N và Đoàn Thế A sử dụng để liên lạc với nhau, các bị can đã khai làm mất nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để truy tìm.

Đối với xe ô tô Mazda biển số 60A-411.13 là phương tiện bị can N sử dụng trong quá trình bắt giữ anh T không rõ hiện đang ở đâu, Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm, khi nào phát hiện sẽ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số: 310/CT-VKS-HS ngày 20/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đã truy tố các bị cáo Phạm Quốc N, Đoàn Thế A về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án từ 06 (Sáu) tháng đến 08 (Tám) tháng tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên tòa, bị hại vắng mặt nhưng trong quá trình điều tra bị hại ban đầu xác định các bị cáo bắt giữ, đánh đập bị hại để lấy tiền nhưng sau đó lại có đơn xin rút tố cáo cho rằng các bị cáo không có bắt giữ, đánh đập bị hại để lấy tiền mà do bị hại thiếu nợ bị cáo N chưa trả. Bị hại ban đầu khai không đúng do bực tức bị cáo N đánh bị hại 02 cái lúc đông người và làm cho nhiều người biết bị hại có nợ tiền của bị cáo N nên đã khai báo ban đầu không đúng diễn biến sự việc, khai thêm nhiều tình tiết không có để trả đũa bị cáo N.

Các bị cáo có ý kiến: các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở N dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ yếu tố kết luận các bị cáo Phạm Quốc N, Đoàn Thế A phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3]. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm, nhưng chỉ dừng lại ở tính chất giản đơn. Các bị cáo đều tích cực thực hiện hành vi bắt giữ đối với bị hại Lê Thanh T. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng cần xem xét đến việc các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 xe mô tô Airblade biển số 60B9-251.72, số khung 4616EY004590; số máy JF 46E2006931; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô Airblade biển số 60B9-251.72 quá trình xác minh là của anh Nguyễn Văn Th nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho anh Th.

- 01 ĐTDĐ Iphone 11 màu tạm giữ của anh Hoàng Hữu Đ , anh Đ nhận cầm cố của anh T và không biết hành vi phạm tội của các bị can, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho anh Đức .

- Đối với 02 điện thoại di động mà các bị can Phạm Quốc N và Đoàn Thế A sử dụng để liên lạc với nhau, các bị can đã khai làm mất nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để truy tìm.

- Đối với xe ô tô Mazda biển số 60A-411.13 là phương tiện bị can N sử dụng trong quá trình bắt giữ anh T không rõ hiện đang ở đâu, Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm, khi nào phát hiện sẽ xử lý sau.

[6]. Đối với hành vi đánh bạc, cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự, chiếm đoạt tài sản các bị cáo không thừa nhận, bị hại Lê Thanh T sau khi vụ án xảy ra đã bỏ địa phương đi, hiện không rõ nơi cư trú nên không làm việc được, do đó không có đủ cơ sở điều kiện chứng minh các hành vi này của các bị cáo nên đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với Đoàn Thế A và Phạm Quốc N đã có hành vi đánh anh Lê Thanh T nhưng anh T có đơn xin từ chối giám định tỷ lệ thương tích, Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với 02 người thanh niên tên T1 và Ch (không rõ họ, địa chỉ) đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[7]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 157; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo:

- Tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc N, Đoàn Thế A phạm tội: “Bắt giữ người trái pháp luật”.

- Xử phạt:

+ Bị cáo Phạm Quốc N 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/7/2020.

+ Bị cáo Đoàn Thế A 06 (Sáu) tháng 10 (Mười) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/7/2020 nhưng được trừ đi thời hạn giam, giữ trước đó (Từ ngày 15/5/2020 đến ngày 24/5/2020).

2. Căn cứ Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Phạm Quốc N, Đoàn Thế A đang bị tạm giam, nếu các bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

468
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HSST ngày 04/01/2021 về tội bắt giữ người trái pháp luật

Số hiệu:01/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về