TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân, thị xã Nghĩa Lộ xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 55/2020/TLST- HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:03/2021/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Đoàn Đức Đ, sinh ngày 16/7/1990 tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Nơi cư trú: Thôn A, thị trấn S, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn M sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị M sinh năm 1969; có vợ là Hà Thị P sinh năm 1993 chưa có con:
tiền án, tiền sự: không:
Nhân thân: Bản án số 03/2012/HSST ngày 22/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản":
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16/10/2020, tạm giam từ ngày 19/10/2020.
Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. “ Có mặt”.
- Bị hại: Lường Văn T, sinh năm 1995; trú tại: Thôn N, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái."Vắng mặt".
- Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Anh Lưu Quý Đ, sinh năm 1993; trú tại: Thôn T, thị trấn S, huyện V, tỉnh Yên Bái. "Vắng mặt".
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 27/11/2019 Đoàn Đức Đ điều khiển xe mô tô đi qua khu vực nhà anh Lường Văn T thuộc thôn N, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái thấy cổng nhà mở, không có ai ở trong nhà Đ liền nảy sinh ý định trộm cắp tài sản.
Đạt đi vào trong nhà phát hiện trên giường ngủ của gia đình anh T có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus đang cắm sạc pin. Đ rút dây xạc, đút chiếc điện thoại vào túi quần và điều khiển xe đi về. Trên đường về đến khu vực cây xăng thuộc tổ 8, xã N, Đ tháo chiếc ốp lưng của điện thoại, bên trong có 10.000 đồng vứt xuống đường, sau đó mang bán chiếc điện thoại cho anh Lưu Quý Đ là chủ cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại tại thôn T, thị trấn S, huyện V được 600.000 đồng và bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 16/10/2020 Đoàn Đức Đạt bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã N. Quá trình điều tra Đạt đã khai nhận hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động nêu trên.
Kết luận định giá tài sản số 38 ngày 09/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus do Đoàn Đức Đ trộm cắp được có trị giá là 3.000.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS-NL ngày 24/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ đã truy tố bị cáo Đoàn Đức Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, * Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản".
- Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.
Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng:
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, nên không đề cập xử lý.
* Bị cáo không tranh luận gì với Kiểm sát viên, thành khẩn khai báo và nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện, từ ngày 27/11/2019 tại nhà riêng của anh Lường Văn T thuộc thôn N, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái. Đoàn Đức Đ lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu đã lén lút trộm cắp của anh Lường Văn T 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s Plus. Trị giá tài sản mà Đ chiếm đoạt được là 3000.000 đồng.
Bị cáo Đ là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác sẽ bị xử lý theo pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu sài nên bị cáo cố ý thực hiện tội phạm.
Từ đó đã có đủ cơ sở khảng định hành vi mà bị cáo Đ thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về nhân thân: Năm 2012 bị cáo đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản, thể hiện là người có nhân thân xấu.
[5] Từ những nhận xét, đánh giá về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo và căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải xử lý bị cáo một cách nghiêm minh, với mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại Trại giam để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, đồng thời góp phần răn đe, phòng ngừa và trấn áp tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
[4] Về hình phạt bổ sung:
Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:
- Chấp nhận cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s Plus.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
- Anh T đã nhận tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Anh Lưu Quý Đ đã nhận lại số tiền 600.000 đồng do Đ trả lại, anh Đ1 không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về các vấn đề khác:
Trong vụ án này có Lưu Quý Đ là người mua chiếc điện thoại di động do bị cáo trộm cắp được, nhưng anh Đ không biết đó là tài sản do bị cáo phạm tội mà có, nên cơ quan Điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự theo quy định của pháp luật
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Đoàn Đức Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. [2] Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Đức Đ 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[3] Về án phí:
Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng ¸án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Đoàn Đức Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo:
- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
- Anh Lường Văn T, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
- Anh Lưu Quý Đ có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 01/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 01/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về