Bản án 01/2021/HS-PT ngày 14/01/2021 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 01/2021/HS-PT NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 197/2020/TLPT-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo Hồ Thị T, Võ Minh M và NguyễnThanh H do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 115/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 của Tòa án nhân dân quận T, thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Hồ Thị T, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: khu vực A, phường B, quận T , thành phố Cần Thơ; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: buôn bán; Con ông Hồ Văn A và bà Lâm Thị C; Chồng: Võ Minh M, sinh năm 1978; Có 04 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/3/2020 cho đến nay. Có mặt.

2. Võ Minh M, sinh năm 1978 Nơi cư trú: khu vực A, phường B, quận T , thành phố Cần Thơ, Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12: Nghề nghiệp: buôn bán; Con ông Võ Minh T và bà Lữ Hương P; Vợ: Hồ Thị T, sinh năm 1989; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án: chưa.

Tiền sự: 01 lần, ngày 17/10/2019, bị Công an phường B, quận T xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi đánh bạc, đóng phạt ngày 24/10/2019.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/3/2020 cho đến nay. Có mặt.

3. Nguyễn Thanh H, sinh năm 1966 Nơi cư trú: Khu vực D, phường E, quận T, thành phố Cần Thơ; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: chạy xe mô tô chở khách; Con ông Nguyễn Thanh V và bà Phạm Thị M; Vợ: Trần Hương G, sinh năm 1972; Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2003; Tiền án: chưa;

Tiền sự: 01 lần, ngày 17/10/2019, bị Công an phường B, quận T xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi đánh bạc, đóng phạt ngày 24/10/2019. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 14/02/2020, Công an quận T tiến hành kiểm tra tại quán cà phê H thuộc khu vực A, phường B, quận T , thành phố Cần Thơ, phát hiện trong điện thoại di động hiệu Oppo A5 For Designer màu trắng, kèm theo sim số 0971.422.130 của Hồ Thị T có nhiều đoạn ghi âm và tin nhắn qua phần mềm zalo có nội dung mua bán số đề. Tang vật thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 màu vàng đồng đã qua sử dụng, kèm sim số 0786910720, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A5 For Designer màu trắng đã qua sử dụng, kèm sim số 0971422130.

Quá trình điều tra xác định từ tháng 10/2019, Hồ Thị T cùng chồng là Võ Minh M đã có hành vi bán số đề cho nhiều người qua điện thoại và phần mềm zalo rồi tổng hợp lại giao cho thầu tên P (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) ở thành phố L, tỉnh An Giang nhằm hưởng lợi. T là người trực tiếp bán số đề, sau đó cuối ngày tổng hợp phơi đề nhắn tin chuyển cho thầu P để hưởng huê hồng với số tiền 13.000 đồng trên 100.000đồng tiền bán số đề. Hình thức bán số đề là bản số lô A (số đầu), lô B (số đuôi), bao lô và số ba con theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài Miền Nam và Miền Bắc, với tỷ lệ ăn thua là lô A, lô B và bao lô đối với số hai con là mua 1.000 đồng thì trúng được 80.000 đồng; còn đối với số ba con thì mua 1.000 đồng trúng được 500.000 đồng. Tổng số tiền thắng, thua thì M, T sẽ chuyển từ tài khoản Ngân hàng Sacombank của T số 070109530172 hoặc tài khoản của M số 070109639549 đến tài khoản Ngân hàng của thầu trên thông qua ứng dụng trên điện thoại di động MBanking. Nếu có trúng thưởng thì thầu sẽ chuyển tiền vào số tài khoản của T, M để T , M đi rút tiền chung chi cho người mua số đề, cụ thể:

Ngày 08/01/2020, T bán số đề qua tin nhắn zalo cho Trần Thị H đài Miền Bắc với số tiền mua số 840.000 đồng, trúng thưởng 800.000 đồng, tổng số tiền 1.640.000 đồng.

Ngày 22/01/2020, T bán số đề qua cuộc gọi trong điện thoại di động cho Nguyễn Thanh H đài Cần Thơ với tiền bán số 6.000.000 đồng, tiền trúng thưởng 8.000.000 đồng; đài Sóc Trăng tiền bán số 6.000.000 đồng, tiền trúng thưởng 24.000.000 đồng; đài Đồng Nai tiền bán số 6.000.000 đồng; đài Miền Bắc tiền bán số 10.850.000 đồng. Tổng cộng tiền bán số là 28.850.000 đồng, tiền trúng thưởng 32.000.000 đồng. Tổng số tiền bán và trúng thưởng trong ngày 22/01/2020 là 60.850.000 đồng.

Ngày 04/02/2020, T bán số đề qua cuộc gọi trong điện thoại di động cho Nguyễn Thanh H đài Bạc Liêu tiền bán số 3.250.000 đồng; đài Bến Tre tiền bán số 3.250.000 đồng; đài Vũng Tàu tiền bán số 3.250.000 đồng; đài Miền Bắc tiền bán số 3.200.000 đồng.Tổng cộng số tiền bán số 12.950.000 đồng.

Ngoài ra, T khai còn bán số đề cho một số người khác nhưng không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể, cũng không nhớ đã mua số gì bao nhiêu tiền. Quá trình bán số đề T , M thu lợi bất chính với số tiến là 1.695.000 đồng.

Tại Bản án số 115/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân quận T, thành phố Cần Thơ đã quyết định:

Căn cứ vào điểm c, d, đ khoản 1 điều 322, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 17 Bộ luật hình sự đối với bị cáo M.

Căn cứ vào điểm c, d khoản 1 điều 322, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 17 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T .

Căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 321, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo H.

Tuyên bố các bị cáo Võ Minh M, Hồ Thị T phạm tội: "Tổ chức đánh bạc "; bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội: "Đánh bạc".

Xử phạt: Hồ Thị T 03 (Ba) năm tù; Võ Minh M 02 (Hai) năm tù; Nguyễn Thanh H 03 (Ba) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo tính từ ngày chấp hành án.

Về hình phạt bổ sung: Miễn cho các bị cáo.

Buộc bị cáo M, T phải liên đới nộp số tiền thu lợi bất chính là 1.695.000 đồng (Một triệu, sáu trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

Ngoài ra, bản án còn tuyên phần xử lý tang vật, vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 02/10/2020, bị cáo H kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt. Lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, lớn tuổi, hình phạt là quá nặng so với việc bị cáo phạm tội.

Ngày 13/10/2020, bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt hoặc cho hưởng án treo do bản thân không có nghề nghiệp, đang chăm sóc 04 con nhỏ; bị cáo M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt hoặc cho hưởng án treo với lý do bản thân là lao động chính trong gia đình, là người bị ảnh hưởng chất độc màu da cam và mất sức lao động, hiện không có nghề nghiệp ổn định.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo, không có cung cấp thêm chứng cứ về các tình tiết mới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm tuân thủ các quy định của Pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho những người tham gia tố tụng. Các chứng cứ tại hồ sơ đủ để kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như để giải quyết các vấn đề khác có liên quan.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo T , H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo như cáo trạng và nội dung án sơ thẩm đã quy kết. Riêng đối với bị cáo M cho rằng bị oan. Các bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Qua lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, đối chiếu với các tài liệu chứng thể hiện trong hồ sơ đã cho thấy: Bị cáo M , T có hành vi bán số đề cho nhiều người bằng điện thoại di động và phần mềm tin nhắn Zalo, sau đó tổng hợp giao cho thầu đề trên để hưởng huê hồng. Hình thức chơi là số đầu, số đuôi, bao lô hai, ba con số của các đài Miền Nam, Miền Bắc. Số tiền thắng, thua thì các bị cáo sẽ chuyển từ tài khoản Ngân hàng của T hoặc M đến tài khoản Ngân hàng của thầu trên thông qua ứng dụng trên điện thoại di động và ngược lại. Ngày 22/01/2020, số tiền bị cáo M, T bán và trúng thưởng là 60.850.000đồng và ngày 04/02/2020 là 12.950.000đồng. Ngoài ra, qua điều tra bị cáo T và bị cáo M cũng đã thừa nhận thực hiện bán số đề trước đó vào khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 11 năm 2019.

Bị cáo H có hành vi mua số đề của bị cáo T , M . Ngày 22/01/2020, số tiền bị cáo H mua và trúng thưởng là 60.850.000 đồng và ngày 04/02/2020 là 12.950.000 đồng và nhiều lần trước đó mua số đề.

Từ những hành vi và số tiền đánh bạc nêu trên cấp sơ thẩm truy tố, xét xử các bị cáo T , M về tội “ Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 322 và bị cáo H theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan cho bị cáo M .

[3] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm trong xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo M và H đã một lần bị xử phạt vi phạm hành chính cũng về hành vi đánh bạc nhưng không lấy đó làm bài học để cải sửa bản thân mà lại tiếp tục cố ý thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện ý thức xem thường pháp luật của các bị cáo; các bị cáo T , M , H đã thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần và trong một chuỗi thời gian dài.

Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, sau khi xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, cấp sơ thẩm đã quyết định mức hình phạt 03 năm tù đối với bị cáo T , 02 năm tù đối với bị cáo M , 03 năm tù đối với bị cáo H là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo. Đối với bị cáo M kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm còn chối tội, chứng tỏ không biết ăn năn, hối cải nên không xem xét.

Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo, HĐXX xét thấy: các bị cáo kháng cáo nhưng không bổ sung thêm chứng cứ về các tình tiết giảm nhẹ mới, các lý do kháng cáo của bị cáo đã được xem xét ở cấp sơ thẩm. Căn cứ Điều 65 Bộ luật Hình sự, Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì các bị cáo không đủ điều kiện để hưởng án treo, nên hội đồng xét xử không chấp nhận.

Đối với bị cáo Nguyễn Thanh H ngoài lần phạm tội này bị cáo còn bị Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xử về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên đến nay bản án chưa có hiệu lực pháp luật nên không tổng hợp bản án. Việc tổng hợp bản án sẽ do Chánh án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1.Tuyên bố:

Các bị cáo Võ Minh M, Hồ Thị T phạm tội: "Tổ chức đánh bạc "; bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội: "Đánh bạc".

2. Áp dụng:

Điểm c, d khoản 1 điều 322, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 17 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T .

Điểm c, d, đ khoản 1 điều 322, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 17 Bộ luật hình sự đối với bị cáo M .

Điểm b khoản 2 điều 321, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo H .

3. Xử phạt:- Bị cáo: Hồ Thị T 03 (Ba) năm tù;

- Bị cáo: Võ Minh M 02 (Hai) năm tù;

- Bị cáo: Nguyễn Thanh H 03 (Ba) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo tính từ ngày các bị cáo chấp hành án.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành.

5. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo T , M , H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-PT ngày 14/01/2021 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Số hiệu:01/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về