Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 397/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mai H, sinh năm: 1990 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện C, tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thọ T, sinh năm: 1985 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện C, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các biên bản làm việc nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mai H trình bày:

Bà Nguyễn Thị Mai H và ông Nguyễn Thọ T qua thời gian quen biết, tìm hiều nhau đã tiến đến hôn nhân, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn vào ngày 19-10-2010 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh B. Thời gian đầu vợ chồng bà H, ông T sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, không tôn trọng lẫn nhau, không quan tâm, lo lắng cho nhau, ông T thường xuyên nhậu nhẹt, không chăm lo làm ăn, lo lắng cho gia đình từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên xúc phạm nhau trầm trọng. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, kéo dài không thể hàn gắn được. Nay bà H cảm thấy không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Thọ T.

Về con chung: Bà H và ông T có 02 người con chung là cháu Nguyễn Đại Trường P, sinh ngày 27/3/2012 và cháu Nguyên Bảo T, sinh ngày 04/8/2016. Bà H có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 người con chung là cháu Nguyễn Đại Trường P và cháu Nguyễn Bảo T. Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Nguyễn Thọ T đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập, thông báo đến tòa án để tham gia phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa nhưng ông T vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải và ghi nhận ý kiến của ông T được.

Kết quả thu thập chứng cứ: Theo kết quả xác minh tại địa phương ngày 17/11/2020 ghi nhận được nội dung sau: Ông T thường xuyên nhậu nhẹt, ông T và bà H thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, cãi vã nhau.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án:

Về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý vụ án đúng theo thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật về nội dung tranh chấp, thu thập đầy đủ chứng cứ và xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự. Hội đồng xét xử thực hiện đúng nguyên tắc xét xử trong phiên tòa sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ tố tụng nên làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mai H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Mai H và ông Nguyễn Thọ T có đăng ký kết hôn, nay bà H xin ly hôn nên đây là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Hiện bị đơn ông Nguyễn Thọ T đang cư trú tại xã C, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện Châu Đức.

[2] Bà Nguyễn Thị Mai H có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Thọ T mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do vì vậy căn cứ vào Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt đối với bà H và ông T.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mai H và ông Nguyễn Thọ T kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 19-10-2010 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh B. Thời gian đầu vợ chồng bà H, ông T sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, không tôn trọng lẫn nhau, không quan tâm, lo lắng cho nhau, ông T thường xuyên nhậu nhẹt, không chăm lo làm ăn, lo lắng cho gia đình.

Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 17/11/2020 tại nơi ở của bà H và ông T, ghi nhận được nội dung sau: Ông T thường xuyên nhậu nhẹt, ông T và bà H thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, cãi vã nhau.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập các bên đến trụ sở Toà án nhằm để ghi nhận ý kiến và hoà giải, nhưng do ông T vắng mặt nên không ghi nhận ý kiến và hòa giải hàn gắn được.

Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn và kết quả xác minh thu thập chứng cứ tại địa phương nhận thấy có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng của nguyên đơn và bị đơn là trầm trọng, cả hai đều không có tiếng nói chung, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận cho bà H được ly hôn với ông T.

[4] Về con chung: Bà H và ông T có 02 người con chung là cháu Nguyễn Đại Trường P, sinh ngày 27/3/2012 và cháu Nguyên Bảo T, sinh ngày 04/8/2016. Bà H có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 người con chung là cháu Nguyễn Đại Trường P và cháu Nguyên Bảo T. Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa án để trình bày nguyện vọng về con chung, nên Tòa án không thể ghi nhận nguyện vọng của ông T về giải quyết con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến, nguyện vọng của con trên 7 tuổi đối với cháu Nguyễn Trường Đại P và ghi nhận được nguyện vọng của cháu P là muốn sống chung với bà H.

Căn cứ vào ý kiến, nguyện vọng của nguyên đơn, người có quyền lợi và lợi ích được bảo vệ và nhận thấy bà H là người có công ăn việc làm ổn định đủ điều kiện để nuôi 02 người con chung. Do đó để đảm bảo quyền lợi của con chung sau khi ly hôn nên giao cháu P và cháu T cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng:

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Vì bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử nhận thấy cần ghi nhận sự tự nguyện của bà H là không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mai H không yêu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét về tài sản chung và nợ chung.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Mai H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phi dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị Mai H được ly hôn với ông Nguyễn Thọ T.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Mai H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 người con chung là cháu Nguyễn Đại Trường P, sinh ngày 27/3/2012 và cháu Nguyên Bảo T, sinh ngày 04/8/2016. Ông Nguyễn Thọ T không phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Nguyễn Thọ T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 luật hôn nhân gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Mai H phải nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí đối với yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004879, ngày 14 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bà Nguyễn Thị Mai H đã nộp xong án phí sơ thẩm.

Hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày tuyên án (13/01/2021) các đương sự được quyền kháng cáo. Do bà H và ông T đều vắng mặt nên thời hạn này được tính từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc niêm yết có quyền yêu cầu Toà án Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về